Toàn văn bài điếu văn cảm động được cựu Thủ tướng Lý Quang Diệu đọc trong lễ tang vợ ông, bà Kha Ngọc Chi, vào ngày 6/10/2010.
LTS:
Những ngày gần đây, tình hình sức khỏe ông Lý Quang Diệu, cựu Thủ tướng
Singapore đang là tâm điểm chú ý của truyền thông châu Á, sau khi ông
phải nhập viện cấp cứu vì viêm phổi nặng.
Trong
bối cảnh đó, nhiều tài liệu, bài viết xúc động về ông Lý, một trong
những chính trị gia xuất sắc nhất châu Á thế kỷ XX đã được các báo đăng
tải.
Dưới
đây, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu một trong số đó: Bài điếu văn
do ông Lý Quang Diệu đọc tại lễ tang vợ, bà Kha Ngọc Chi, đăng trên
kênh Channel News Asia với tiêu đề: Lời từ biệt cuối cùng gửi vợ tôi.
Từ thời xa xưa, con người ta đã khơi nguồn và gìn giữ những tục lệ để
bạn bè và người thân của người đã khuất cùng nhau chia sẻ nỗi đau mất
mát.
Thay vì ghê sợ trước cái chết, họ cùng nhau bày tỏ lòng thành kính trước
vong linh người đã bước sang thế giới bên kia, và đem đến sự bình yên
cho những người ở lại.
Tôi còn nhớ khi bà ngoại tôi qua đời khoảng 75 năm trước. Lúc bấy giờ,
suốt 5 đêm liền gia đình tôi quây quần bên nhau ca tụng cuộc đời bà,
khóc thương bà, và tưởng nhớ bà, tất cả được thực hiện dưới sự dẫn dắt
của một người chuyên khóc thuê.
Giờ đây, những tục lệ như vậy không còn nữa. Nỗi buồn hôm nay xin được
thể hiện qua những câu chuyện về cuộc đời người vợ, người mẹ, và người
bà của chúng tôi.
Tháng 10/2003, khi bà trải qua cơn đột quỵ đầu tiên, đối với chúng tôi
dường như đó là một lời cảnh báo về ranh giới giữa sự sống và cái chết
đã cận kề.
Tôi và bà đã ở bên nhau từ năm 1947, hơn ba-phần-tư đời người tôi có bà,
và bà có tôi. Sự ra đi của bà đã để lại trong tôi một nỗi đau không thể
diễn tả thành lời.
Nhưng hôm nay, khi nhìn lại chặng đường chúng tôi đã đi cùng nhau trong suốt bao năm tháng qua, tôi muốn ca tụng cuộc đời bà.
Những ngày đầu gặp gỡ
Khi ấy, tôi là một chàng trai trẻ bỏ dở đại học, không có công ăn việc
làm ổn định. Bố mẹ bà bấy giờ cũng không thấy triển vọng gì ở chàng rể
tương lai của họ.
Nhưng bà luôn tin vào tôi.
Ông Lý Quang Diệu và bà Kha Ngọc Chi khi còn trẻ. Ảnh: Google Images
Tôi và bà nguyện sẽ cố gắng vì nhau. Tôi quyết định đến Anh vào tháng
9/1946 để học luật, còn bà quay lại trường Raffles, với quyết tâm giành
cho bằng được suất học bổng do Nữ hoàng Anh trao tặng hàng năm cho sinh
viên Singapore.
Chúng tôi biết chỉ một người trong cả nước có được vinh dự này. Tôi đã
có điều kiện được sang Anh trước, và hi vọng chúng tôi có thể hội ngộ
nếu bà giành được suất học bổng quý giá ấy. Nếu không, chúng tôi sẽ phải
xa nhau trong 3 năm.
Tháng 6/1947, bà đã giành được suất học bổng ấy. Kể từ đó, chúng tôi không bao giờ xa nhau.
Tôi và bà làm đám cưới vào tháng 12/1947 tại Stratford-upon-Avon, khi đó
chỉ có hai chúng tôi với nhau. Tại Đại học Cambridge, chúng tôi dồn hết
tâm sức vào việc học luật.
Khi trở lại Singapore, chúng tôi cùng được nhận vào làm tại văn phòng
luật Laycock & Ong, với vai trò hỗ trợ pháp lý. Không lâu sau, tôi
và bà làm đám cưới chính thức, thể theo nguyện vọng của bạn bè và người
thân.
Tháng 2/1952, đứa con trai đầu lòng của chúng tôi, Hiển Long, chào đời. Bà xin nghỉ một năm để chăm sóc con.
Vợ chồng ông Lý cùng cậu con trai đầu lòng Hiển Long - Thủ tướng đương nhiệm của Singapore. Ảnh: Google Images
Cùng lúc đó, tôi được giao vụ kiện của Hội Liên hiệp các Nhân viên Bưu
chính Viễn thông. Họ muốn có những điều khoản và điều kiện dịch vụ tốt
hơn từ phía chính phủ. Sau hai tuần thương lượng, hai bên đã thỏa hiệp
thành công.
Dù đang phải chăm sóc đứa con đầu lòng, bà vẫn tỉ mỉ đọc và chỉnh sửa
bản thảo báo cáo của tôi, khiến nó trở nên đơn giản và dễ hiểu hơn.
Dần dần, bà đã thay đổi cách hành văn của tôi. Giờ tôi viết câu cú ngắn
gọn, ở dạng chủ động. Sống cùng nhau lâu năm, chúng tôi thay đổi thói
quen của nhau, cũng như tự thay đổi bản thân để hợp với tính cách người
còn lại.
Tôi và bà đều hiểu rằng chúng tôi không thể cứ mãi là một đôi tình nhân
mơ mộng được. Cuộc sống là một thử thách đằng đẵng với đầy rẫy những vấn
đề cần giải quyết.
Chúng tôi có thêm hai đứa con, Vỹ Linh (1955) và Hiển Dương (1957). Bà
đã nuôi dưỡng chúng trở thành những con người lịch sự, biết cư xử và để
tâm đến người khác.
Nhờ có bà, không bao giờ các con ra đường với tâm thế cậu ấm, cô chiêu của Thủ tướng.
Thu nhập từ nghề luật sư của bà đủ để khiến tôi không phải lo lắng gì về tương lai của các con.
Bà đã chứng kiến cái giá tôi phải trả vì không học tiếng Trung khi còn
nhỏ. Do đó, chúng tôi quyết định gửi các con đi học tại các trường lớp
sử dụng tiếng Trung từ mẫu giáo. Bà cũng đảm bảo việc các con học tiếng
Anh và tiếng Malay ở nhà.
Công dưỡng dục của bà đã cho các con một hành trang vững chắc cho cuộc sống tương lai tại một quốc gia đa ngôn ngữ.
Tôi và bà chưa bao giờ phải tranh cãi về cách nuôi dạy con cái hay về
tài chính. Thu nhập và tài sản của chúng tôi đều đứng tên cả hai người.
Chúng tôi luôn tin tưởng nhau tuyệt đối.
Bà luôn để ý đến những gì diễn ra xung quanh. Có lần, bà nhận thấy một
số loài chim trong vườn Istana, nơi chúng tôi thường đi dạo mỗi tối, dần
biến mất. Thay vào đó là chim mynah và lũ quạ.
Sau đó, cũng chính bà phát hiện ra rằng người quản lý khu vườn đã cho
cắt cỏ dại và phun sương chống muỗi, tước đi nguồn thức ăn của những
loài chim này. Bà cho dừng việc cắt cỏ và phun sương, và lũ chim lập tức
trở lại.
Bà nắm rõ tên của từng loại hoa, kể cả tên khoa học của chúng. Bà sở hữu
một vốn từ vựng khổng lồ. Bà từng theo học chuyên ngành Anh văn tại Đại
học Raffles và là một người rất chăm đọc sách.
Jane Austen, J.R.R. Tolkien, Chiến tranh Hy Lạp cổ đại của Thucydides,
tập thơ Aeneid bằng tiếng Latin của Virgil, Bách khoa toàn thư đồ ăn
Oxford, Hải sản Đông Nam Á, Các loài cây bên vệ đường Malaya, hay Các
loài Chim ở Singapore, sách gì bà cũng đọc.
Phu nhân Thủ tướng
Chính bà cũng giúp tôi soạn thảo Hiến pháp của đảng Nhân dân Hành động
(PAP). Trong buổi họp chính thức đầu tiên của đảng vào ngày 4/11/1954,
bà đã tập hợp phu nhân các thành viên sáng lập đảng để thêu nút thắt hoa
hồng cho những người lên sân khấu.
Trong cuộc bầu cử đầu tiên tôi tham gia tại quận Tanjong Pagar, chính bà
đã biến căn nhà của chúng tôi tại đường Oxley trở thành nơi tập kết ô
tô đưa những người ủng hộ tôi ở quận này tới điểm bỏ phiếu.
Bà cũng từng cảnh báo rằng tôi không thể tin tưởng những thành viên liên
hiệp giao thương cánh tả do Lim Chin Siong cầm đầu (ông Lim sau này đã
châm ngòi cho nhiều cuộc bạo động tại Singapore và từng bị PAP bắt giữ -
PV).
Bà có biệt tài đọc tính cách người khác. Bà vẫn nhắc tôi phải cẩn trọng
với một số người nhất định; và quan sát của bà về những người này thường
chính xác.
Khi Singapore chuẩn bị sáp nhập với Malaysia, chính bà đã nói với tôi
rằng bước đi này sẽ không đem lại thành công vì các lãnh đạo Malaysia có
một cách tiếp cận khác, nền chính trị của họ đề cao tính tập thể và
nhất quán trong chủng tộc và tôn giáo.
Tôi đáp lại rằng chúng tôi phải làm như vậy vì không còn lựa chọn nào
khác. Nhưng bà đã đúng. Chỉ chưa đầy hai năm sau khi sáp nhập, Singapore
đã bị đề nghị phải tách khỏi Malaysia.
Năm 1965, khi ly khai chỉ còn là vấn đề thời gian, Bộ trưởng Tư pháp
Eddie Barker đã soạn thảo sẵn một bộ luật. Nhưng trong đó ông không hề
nhắc đến cam kết của Chính phủ về việc đảm bảo tiến hành thỏa thuận cung
cấp nước kí với đại diện bang Johor (Malaysia).
Tôi lập tức nhờ bà bổ sung chi tiết trên. Chính bà đã soạn thảo cam kết
này cũng như thay đổi chi tiết liên quan trong Hiến pháp Nhà nước
Malaysia, trước khi trình lên Liên Hiệp Quốc.
Bà đã hết sức chỉn chu trong cách dùng từ. Thư kí Khối Thịnh vượng chung
Anh quốc khi đó là Arthur Bottomley đã phải nói rằng, nếu sau này các
nước nào có ý định tách rời, ông mong họ có thể thực hiện điều đó một
cách chuyên nghiệp như Singapore và Malaysia.
Sau này, mỗi khi các nhà lãnh đạo Malaysia đe dọa cắt nguồn cung cấp
nước, tôi luôn yên tâm rằng bản cam kết mạch lạc do bà soạn thảo sẽ giúp
Singapore có được một phán quyết có lợi từ Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc.
Những ngày cuối đời
Sau cơn đột quỵ đầu tiên, bà mất đi một nửa thị giác, gây ảnh hưởng tới
việc đọc sách của bà. Nhưng bà lập tức học cách thích nghi, với sự trợ
giúp của một chiếc thước kẻ. Bà vẫn đi công du cùng tôi, vẫn bơi đều đặn
mỗi tối, và vẫn giữ liên lạc với gia đình và bạn bè.
Bà vẫn nghe những bản nhạc giao hưởng và những ca khúc bất hủ do bà sưu
tập. Bà vẫn nói đùa rằng cuộc đời bà có thể được chia làm hai giai đoạn,
trước và sau đột quỵ, như trước và sau công nguyên vậy.
Nhưng cơn đột quỵ thứ hai của bà, vào ngày 12/5/2008, nghiêm trọng hơn
nhiều. Tôi cố gắng động viên bà, cùng với sự trợ giúp của các y bác sĩ
và nhân viên trị liệu xuất sắc.
Đội ngũ y tá và nhân viên phục vụ đều yêu quý bà vì bà luôn quan tâm đến họ.
Khi ho, bà vội vớ lấy chiếc gối nhỏ trên giường để che miệng, vì bà không muốn lây bệnh sang cho họ.
Khi tôi hôn lên má bà, bà đều nhắc tôi đừng đến quá gần vì sợ tôi sẽ lây bệnh viêm phổi của bà.
Khi được tặng một bịch đào, bà dặn dò người phục vụ mang một quả về để tôi ăn tráng miệng sau bữa trưa.
Kể cả khi bệnh tật, bà vẫn xem tôi là tâm điểm cuộc sống của bà.
Vào cái ngày 24/6/2008 ấy, kết quả chụp CT phát hiện bà đã bị tai biến
mạch máu ở cả vùng não bên phải. Không còn thuốc men hay phẫu thuật gì
có thể cải thiện được tình hình nữa. Tôi đưa bà về nhà hôm 3/7/2008.
Các bác sĩ nói rằng chúng tôi chỉ còn vài tuần. Nhưng bà đã ở bên tôi thêm 2 năm, 3 tháng nữa, đến ngày 2/10/2010.
Trong những ngày tháng cuối đời, bà vẫn minh mẫn. Quãng thời gian này đã
giúp tôi và các con dần chấp nhận được thực tế phũ phàng không thể
tránh khỏi.
Vợ chồng ông Lý khi tuổi già. Ảnh: Google Images
Hai năm cuối của cuộc đời bà thật khó nhọc. Bà không thể nói được nhưng vẫn có khả năng nhận thức những gì diễn ra xung quanh.
Bà không thể rời khỏi giường vì những cơn đột quỵ liên tiếp. Bà không
thể nói được nhưng vẫn hiểu chuyện gì đang diễn ra. Hàng đêm, bà luôn
đợi tôi đến ngồi bên bà, kể lại cho bà biết những việc tôi đã làm trong
ngày, và đọc cho bà nghe những bài thơ bà yêu thích.
Rồi bà thiếp đi.
Trước khi ra đi, bà đã chia sẻ với tôi ước nguyện cuối cùng của cuộc
đời, bà nhờ tôi dặn các con đặt hộp tro của chúng tôi bên cạnh nhau,
cũng như tôi và bà đã ở bên nhau suốt cả đời này vậy.
Tôi đã lưu giữ biết bao kỉ niệm quý giá trong suốt 63 năm tôi và bà bên
nhau. Nếu không có bà, tôi đã là một người hoàn toàn khác, với một cuộc
sống hoàn toàn khác. Bà đã dành trọn cuộc đời cho tôi, và cho các con.
Bà luôn ở bên tôi khi tôi cần đến bà. Bà đã sống một cuộc sống tràn hơi ấm tình thương và đầy ý nghĩa.
Có lẽ tôi nên cảm thấy được an ủi vì những gì bà đã làm được trong 90 năm cuộc đời.
Nhưng lúc này đây, khi tôi và bà nói lời từ biệt lần cuối, trái tim tôi lại nặng trĩu nỗi buồn...
Lý Quang Diệu, 6/10/
0 nhận xét:
Cảm nghĩ của bạn
Cảm ơn bạn đã xem bài đăng! Xin cho biết cảm nghĩ của bạn!