“Trái tim, tâm hồn và trí tuệ của tôi, tất cả đều tập trung để
làm sao ngăn chặn những toan tính điên dại đang diễn ra trên Sông
Mekong.” Tom Fawthrop, nhà báo Anh, đạo diễn phim Killing the Mekong Dam by Dam.
Gửi Nhóm Bạn Cửu Long
Ngô Thế Vinh
Ảnh hưởng giây chuyền từ những con đập
Với 14 con đập Bậc Thềm Vân Nam và 12 con đập Hạ lưu, tổng số 26 con
đập dòng chính trên suốt chiều dài hơn 4,800 km sông Mekong, với thời
gian là những hậu quả huỷ hoại tích lũy không thể đảo nghịch từ những
khúc sông nghẽn mạch, và ảnh hưởng dây chuyền của chuỗi các con đập ấy
bao gồm:
1/ Biến đổi bản chất tự nhiên của con sông, và dòng sông sẽ không còn
giữ được “nhịp đập / flood pulse” theo mùa, cũng là yếu tố sinh tử của
Biển Hồ như trái tim của hệ sinh thái Sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu
Long.
2/ Biến đổi dòng chảy sẽ ảnh hưởng tới nguồn cá và an toàn lương
thực: thu hẹp diện tích các vùng đất ngập / wetland areas và hủy hoại
sinh cảnh thiết yếu của các loài cá sông Mekong.
3/ Dòng sông biến dạng đe dọa tính đa dạng của hệ thủy sinh trong đó
có các chủng loại quan trọng / flagships species biểu tượng cho sự lành
mạnh hệ sinh thái sông Mekong như cá Irrawaddy Dolphin, cá Pla Beuk đang
có nguy cơ bị tuyệt chủng.
4/ Các khu rừng hạ lưu sông Mekong được công nhận là Vùng Đa dạng
Sinh thái Chủ yếu / key biodiversity zones với các Vùng Đất Ngập được
bảo vệ theo Quy ước Ramsar. Những con đập sẽ nhận chìm các vùng đất ngập
và gây ảnh hưởng trên hệ sinh thái động vật và thực vật / fauna and
flora của toàn lưu vực.
5/ Nông nghiệp bị tổn thất do phần đất bị ngập lụt từ các con đập,
mất nguồn thực phẩm do canh tác ven sông, và do lượng phù sa từ thượng
nguồn vì bị giữ lại trong các hồ chứa sẽ ảnh hưởng tới tiến trình chuyển
tải các dưỡng chất thiết yếu cho ruộng vườn như phốt phát và đạm chất /
nitrogen tưới bón cho các dẻo đất ven sông và nhất là các vùng châu thổ
(Tonle Sap Cam Bốt, ĐBSCL Việt Nam).
6/ Giảm lượng phù sa cũng có nghĩa là làm mất cân bằng dòng chảy, gây
sạt lở các bờ sông và mũi Cà Mau thì đang bị cắt lẹm mỗi năm và trôi
dần ra biển. Lưu lượng dòng chảy giảm do những hồ chứa, mực nước biển
dâng do thay đổi khí hậu và hậu quả là nạn nhiễm mặn càng ngày càng lấn
sâu và tiến xa vào vùng châu thổ. Không có giống lúa và vườn cây trái
nào có thể sống còn trên những thửa đất muối mặn.
Witoon Permpongsachareon, chủ tịch nhóm bảo vệ môi sinh TERRA, có văn
phòng ở Bangkok phát biểu: “Những con đập là mối đe doạ lớn nhất đối
với con sông Mekong và sự trong lành của môi sinh. Xây một con đập thì
cũng giống như kẹp một động mạch trên một cơ thể khoẻ mạnh. Nếu máu
không lưu thông chắc chắn cơ thể ấy bị tổn hại.” [Strangling the Mekong.
Ron Moreau, Richard Ernsberger Jr. Newsweek International, March 19,
2011]
Hai cực của sự hủy hoại
Trong số 26 con đập dòng chính Sông Mekong, thì Noạ Trát Độ /
Nuozhadu 5,850 MW trên Vân Nam là con đập lớn nhất, và Don Sahong 260 MW
là con đập nhỏ và quan trọng nhất thuộc địa phận Nam Lào (không kể tới
Thakho Diversion, cũng của Lào, 50 MW được bảo trở bởi CNR & EDL).
Bài viết là một phân tích về hai thái cực của sự huỷ hoại: từ con đập
lớn nhất tới con đập nhỏ nhất trên toàn hệ sinh thái Sông Mekong.
Nuozhadu con đập lớn nhất
Chỉ đứng thứ hai sau con đập Tam Hợp / Three Gorges Dam lớn nhất thế
giới trên Sông Dương Tử, Nọa Trát Độ / Nuozhadu là một con Khủng long
trên Sông Mekong. Con đập được khởi công từ 2006, phải giải tỏa 24,000
cư dân ra khỏi khu xây đập. Hồ chứa của con đập Nọa Trát Độ, có chiều
dài 226 km, diện tích mặt hồ chứa 320 km2 (gần bằng nửa diện tích đảo
quốc Singapore 716 km2) với dung lượng lên tới 22 tỉ m3, (Tiểu Loan /
Xiaowan 15 tỉ m3); 30 lần lớn hơn hồ chứa con đập Tokuyama là đập thủy
điện lớn nhất của Nhật Bản, với 9 đơn vị phát điện đã hoàn tất vào năm
2014, với tổng công xuất lên tới 5,850 MW, tương đương với hơn 5 lò máy
nguyên tử lớn / 5 large nuclear reactors.
[Chinese dam projects raise alarm in Asia_ theo Asahi Shimbun, 16/08/2010]
Nọa Trát Độ [261.5 m] tuy không cao nhất thế giới như đập Tiểu Loan
[293 m] nhưng lại là “con đập lớn nhất” trên dòng chính sông Mekong.
Theo Fred Pearce, sau đập Tiểu Loan, và con đập Nọa Trát Độ hoàn tất,
sông Mekong sẽ trở thành tháp nước và nhà máy điện của Trung Quốc. (
Damming the Mekong: Major blow to an Epic River, Yale Environment 360, 22 June 2009) [Hình I & II]
Hiroshi Hori là một chuyên gia Nhật, làm việc cho Liên Hiệp Quốc
trong Ủy Ban Sông Mekong, tác giả cuốn sách “The Mekong: Environment and
Development”, đã nhận định: “
Lưu Vực Trên của sông Mekong là vùng
động đất, với những chuyển động địa chấn đáng kể khiến người ta có lý do
để sợ rằng động đất sẽ xảy ra khi xây những con đập.” (2) Chính các học giả và chuyên gia môi sinh Trung Quốc cũng đã lên tiếng báo động về nguy cơ vỡ đập này. (3)
Không có gì bảo đảm rằng một thảm họa như vậy sẽ không thể xảy ra
trên sông Mekong. Nếu con sông Mekong là mạch sống của ngót 70 triệu cư
dân sống trong lưu vực thì mỗi con đập dòng chính là một gót chân
Achilles cho toàn vùng. Và hiển nhiên là thảm họa do con người gây ra sẽ
lớn hơn gấp bội so với tai ương từ thiên nhiên...
Nhận định chung về kế hoạch khai thác sông Mekong của Trung Quốc,
Tyson Roberts thuộc Viện Nghiên Cứu Nhiệt đới Smithsonian (Mỹ) đã phát
biểu: “Xây các đập thuỷ điện, khai thông thuỷ lộ, với tàu bè thương mại
quá tải sẽ giết chết dòng sông… Các bước khai thác của Trung Quốc làm
suy thoái hệ sinh thái, gây ô nhiễm tệ hại, khiến con sông Mekong đang
chết dần, cũng giống như con sông Dương Tử và các con sông lớn khác của
Trung Quốc.” (6)
Hồ chứa Đập Thuỷ điện
Noạ Trát Độ lớn nhất trên Sông Mekong chiều dài 226 km, diện tích mặt hồ
320 km2 (gần bằng nửa diện tích đảo quốc Singapore 716 km2) với dung
lượng lên tới 22 tỉ m3 nước. (Nguồn: Ying Qiu, International Rivers)
Don Sahong con đập nhỏ nhất
Cách đây gần một năm, ngày 3 tháng 10, 2013, chính phủ Lào thông báo
cho Uỷ Hội Sông Mekong / MRC về quyết định xây con đập dòng chính thứ
hai: Don Sahong, là một con đập-dòng-chảy /
run-of-river dam nằm
trong vùng Thác Khone / Siphadone thuộc tỉnh Champasak, Nam Lào chỉ cách
biên giới Cam Bốt 2 km. Lào chưa công khai đưa ra một đồ án chính thức /
project’s final design và chi tiết về con đập Don Sahong. Sơ
khởi được biết con đập chỉ có công xuất 260 MW, cao 30m, có chiều ngang
rộng 100m, trụ trên suốt chiều dài 5 km của hẻm nước /water channel Hou
Sahong. (4)
Thác Khone rất hùng vĩ gốm rất nhiều ghềnh thác và hàng ngàn đảo nối
tiếp nhau (do đó còn có tên Tứ Thiên Đảo/ Four thousand islands), nơi mà
trong mùa mưa, theo Ts Nguyễn Đức Hiệp một chuyên gia môi trường Úc
châu, thì lượng nước và lượng phù sa đổ xuống từ thác Khone còn lớn hơn
cả tổng lượng nước của cả hai con thác Niagara ở Bắc Mỹ và Victoria ở
Phi châu. (7)
Từ tây sang đông thác Khone có nơi trải rộng tới 14 km, khúc trải
rộng nhất của toàn thể chiều dài con sông Mekong. Về phương diện đa dạng
sinh học, thác Khone là phần hết sức kỳ lạ của con sông Mekong. Ngay
dưới chân thác là một quần thể phong phú nhất về cá, những loài cá nước
ngọt không chỉ của Đông Nam Á mà phải nói là của cả thế giới nữa. Không
phải chỉ có nguồn nước, nguồn phù sa, mà nguồn thuỷ sản nhất là cá là
nguồn protein chính và quan trọng đối với đa số cư dân sống trong lưu
vực, nhất là Lào và Cam Bốt.
Khúc sông Mekong nơi thác Khone chính là trọng điểm hay còn có thể gọi là “ tử huyệt” của toàn hệ sinh thái lưu vực sông Mekong.
Sự đa dạng sinh học của sông Mekong, với khoảng 1,500 chủng loại cá
trong số đó có hơn 2/3 thuộc loại di ngư / migratory fish, theo mùa lội
ngược dòng Mekong và lên cả các phụ lưu trong chu kỳ sinh sản và tăng
trưởng; đa số thuộc loại cá đánh bắt là nguồn lương thực và trao đổi
thương mại.
Sông Mekong với nguồn nước ngọt và trữ lượng phù sa phong phú đã
khiến ĐBSCL Việt Nam bấy lâu là cái nôi sản xuất cảng gạo lớn thứ hai
của cả thế giới, chỉ đứng sau Thái Lan và đồng thời cũng là vựa cá nước
ngọt lớn nhất với 4 triệu tấn mỗi năm trị giá lên tới 9 tỉ MK, chưa kể
tới những tôm cua rùa ốc và cả rong tảo chiếm tới 80% lượng protein của
cư dân lưu vực.
Đoàn thám hiểm Pháp Doudart de Lagrée / Francis Garnier khi ngược
dòng sông Mekong (1866) đã phải kinh ngạc khi đối diện với thác Khone.
Cảnh tượng thì hùng vĩ với vang ầm tiếng nước đổ vào các ghềnh đá sủi
bọt tung tóe.
Thác Khone từng được ví như một phòng thí nghiệm thiên nhiên lý
tưởng, một thế giới vi mô – microcosm của toàn hệ sinh thái sông Mekong,
nơi để cho các nhà sinh học và ngư học nghiên cứu. Do tầm quan trọng
độc nhất vô nhị ấy khiến TS Mark Hill đã kêu gọi bằng mọi giá phải bảo
vệ sự toàn vẹn của vùng thác Khone trong những kế hoạch phát triển và
xây các đập thủy điện trên sông Mekong.
Ian Baird người Gia Nã Đại, nay là Gs Đại học Wiscosin từ nhiều năm
tình nguyện sang sống ở Lào và từ 1993 trực tiếp điều hành một dự án ở
Nam Lào –
Laos Community Fisheries and Dolphin Protection Project
với ngân khoản vỏn vẹn chỉ có 60 ngàn đôla mỗi năm để kết hợp 63 làng
xã trong vùng nhằm vận động bảo vệ loài cá Dolphin đang có nguy cơ bị
tuyệt chủng nhưng xa hơn là phát triển một nền ngư nghiệp bền vững –
sustainable fishing vì ai cũng biết “lúa và cá” là xương sống của nền kinh tế lưu vực sông Mekong. (1)
Ian Baird, nhà hoạt
động môi sinh, sống nhiều năm trên đất Lào và là chuyên gia bảo vệ nguồn
cá sông Mekong. (Nguồn: Tom Fawthrop)
Niềm vui trong thiên tai
Từ hình ảnh ước lệ về một ĐBSCL “làm chơi ăn thiệt” với ruộng đồng
thẳng cánh cò bay, thì nay người dân ĐBSCL phải “đổ mồ hôi sôi nước mắt”
mà vẫn cứ không đủ ăn, và những đứa con của họ phải đi “tha phương cầu
thực” sang các xứ Đại Hàn, Đài Loan, Trung Quốc… nhưng rồi ngay vẫn trên
“vùng đất khổ” đó, người ta vẫn cứ tận khai thác các chuyến Du Lịch
Sinh Thái / Ecotourism được quảng cáo tràn ngập với bao nhiêu hình ảnh
của một ĐBSCL được thiên nhiên ưu đãi, với các khu nhà vườn, tràm chim
rồi tới vô số các món ăn đặc sản Miền Tây với đủ loại cá tôm và hoa
trái...
Người xem thì cứ tưởng như là đó mãi mãi một nguồn tài nguyên thiên nhiên bất tận, nhưng có ai biết đó là thứ
“niềm vui trong thiên tai”
như lời thơ của Nguyễn Đình Toàn, người đã từng ví nước sông Mekong như
là máu của đất. Và có ai mà nghĩ được rằng ĐBSCL đang mang hình ảnh một
con tàu bấp bênh trên biển lớn và mỗi con đập trên dòng chính sông
Mekong là những lỗ thủng lớn nhỏ hai bên thân tàu và nước mặn thì càng
ngày càng tràn sâu vào các xoang bên trong. Và hậu quả nhãn tiền là
những cánh đồng lúa bị cháy xém vì nhiễm mặn. [Hình IV]
Và cũng trên chính cánh đồng lúa cháy đó, Gs Võ Tòng Xuân, Nguyên Viện trưởng Đại Học An Giang đã phát biểu: “
Sản
xuất lúa gạo Đồng Bằng Sông Cửu Long bị đe dọa hơn nữa do xây con đập
thứ hai Don Sahong ở Nam Lào. Con đập chắn ngang dòng chính Mekong khi
đổ vào vùng Thác Khone, sẽ làm giảm dòng chảy, gây nguy hại cho khu bảo
tồn Ramsar Siphadone, cho mùa màng và ngư nghiệp dưới nguồn. Chúng tôi
đã chứng kiến những cánh đồng lúa lan rộng trong mùa khô trên khắp các
vùng Đông Bắc Thái, Nam Lào và Cam Bốt, đã rút đi một lượng nước sông
rất đáng kể trong vùng. Nhiều năm qua, nguồn nước cung cấp cho các vụ
lúa mùa khô nơi ĐBSCL đã bị sút giảm nghiêm trọng, hậu quả là nạn nhiễm
mặn tiến sâu vào đất liền xa tới 80 km và gây tổn hại cho mùa màng.
Chúng tôi kêu gọi chính phủ Lào và các nhà đầu tư Mã Lai hãy tự tiết chế
không gây tác hại thêm cho dòng chính sông Mekong nhằm bảo vệ môi sinh
và cư dân nơi hạ nguồn.” [26-10-2013]
Gs Võ Tòng Xuân trên
ruộng lúa bị cháy vì nhiễm mặn tại quận Gia Rai, Đồng Bằng Sông Cửu
Long. (nguồn: Gs Võ Tòng Xuân. Đại học An Giang)
[ Tưởng cũng nên mở một dấu ngoặc về Quy ước Ramsar /
Ramsar Convention (1971), nhằm bảo vệ và sử dụng khôn ngoan nguồn tài
nguyên các vùng đất ngập / wetlands và cùng xác định những khu bảo tồn,
được mỗi quốc gia và quốc tế công nhận. Cả 3 nước Lào, Cam Bốt và Việt
Nam đều có những vùng đất ngập được bảo vệ bởi Quy ước Ramsar này như:
vùng Thác Khone, Stung Treng, vùng Sinh Thái Biển Hồ, Tràm Chim Tam
Nông, Mũi Cà Mau... ]
Thay kết từ
Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton và sau đó là cả Thượng Viện Mỹ
(07/2011) đã từng khẩn thiết kêu gọi các quốc gia Mekong cần tránh những
lỗi lầm của Hoa Kỳ từ hơn 100 năm qua khi quyết định vội vã xây các con
đập và sau đó phải trả bằng những bài học đắt giá ra sao. (5)
Không kể đến một nước lớn Trung Quốc đã hành xử một cách vô trách
nhiệm, khống chế và tận khai thác nguồn thuỷ điện trên suốt nửa chiều
dài trên của con sông Mekong, bất kể hậu quả và cái giá phải trả ra sao
với các quốc gia hạ lưu. Nhưng rồi ngay các quốc gia Mekong khác cũng
không hơn gì. Cho dù động lực phát triển kinh tế và đáp ứng cơn khát về
năng lượng là những nhu cầu chính đáng, nhưng để đi tới mục tiêu ấy, vội
vã xây những con đập mà không kể gì tới hậu quả về môi trường cùng với
những tác dụng tiêu cực về kinh tế xã hội như an toàn lương thực, phẩm
chất môi trường thì đó là những lâu dài xây trên cát lún.
Chỉ thấy những lợi lộc ngắn hạn trước mắt với những bước “Phát triển
Không Bền vững / unsustainable development”, hay đúng hơn là bước “Phát
Triển Tự Huỷ” làm mất hết nguồn tài nguyên thiên nhiên với hậu qủa là
các thế hệ tương lai sẽ phải sống trên một vùng đất đai cạn kiệt và càng
ngày càng nghèo đi.
Uỷ Hội Sông Mekong/ MRC kể từ ngày thành lập 1995, sau 19 năm hiện
diện, khi bị thử thách với điển hình 2 con đập Xayaburi và Don Sahong
của Lào, MRC đã chứng tỏ là một tổ chức không có thực lực và cả vô hiệu
trong giải quyết các cuộc tranh chấp xuyên biên giới giữa các quốc gia
Mekong, nguyên do MRC thiếu hẳn biện pháp cưỡng chế / enforcement
mechanism. Nếu không có ngay một tái cấu trúc cho tổ chức này, chúng ta
có thể tiên liệu rằng, cũng sẽ tái diễn cùng một kịch bản với 10 con đập
dòng chính hạ lưu còn lại, đó sẽ là một thảm hoạ cho hệ sinh thái sông
Mekong và cũng là hồi chuông báo tử cho ĐBSCL.
Với “Tinh Thần Sông Mekong” như một mẫu số chung, không bị chia cắt
bởi những hàng rào chính trị và quyền lợi cục bộ, các quốc gia Mekong có
khả năng cùng chung sức xây dựng một nền tảng phát triển hiệu quả, bền
vững, đáp ứng được nhu cầu sản xuất điện, tăng trưởng kinh tế và giảm
nghèo khó nhưng vẫn bảo tồn được nguồn tài nguyên thiên nhiên cho các
thế hệ tương lai.
Cũng để thấy rằng “Sông Mekong đang bị đe dọa nghiêm trọng vì sự
lạm dụng nguồn nước và hậu quả của biến đổi khí hậu. Nếu không có một
chính sách khai thác thận trọng và hợp lý các nguồn tài nguyên sông
Mekong, con sông hùng vĩ này không thể nào sống còn”.
Phát biểu cô đọng và nhiều ý nghĩa trên, không phải từ cửa miệng một
giới lãnh đạo Việt Nam mà lại là từ một nguyên Thủ tướng Thái Lan
Abhisit Vejjajiva, trong Hội nghị Thượng đỉnh Mekong tại Hua Hin, Thái
Lan cách nay cũng đã hơn 4 năm rồi [Hua Hin MRC Summit 2010].
Ngô Thế Vinh
09 - 14 - 2014