Ăn để
sống và sống để ăn là hai phản đề, hai cách sống, hai quan niệm rất khác
xa nhau. Sống để làm việc nên cần ăn để duy trì sự sống làm việc đó,
hoàn toàn khác với sống để ăn, ăn cho thỏa thích, ăn để hưởng thụ, ăn là
mục đích hàng đầu và cũng là mục đích cuối cùng, tối thượng...
Nơi chia sẻ thông tin, cảm xúc và những vấn đề cùng quan tâm của nhóm bạn học sinh Thủ Khoa Nghĩa Châu đốc, niên khoá 1971-1978
31 tháng 10, 2012
VĂN HÓA ẨM THỰC & ĐỜI SỐNG...
29 tháng 10, 2012
BỮA CƠM GIA ĐÌNH
Trong tất cả các nền văn hóa trên thế giới, bữa ăn gia đình được công
nhận là một cơ chế vĩnh viễn và là thành tố quan trọng sống còn trong
đời sống gia đình vững chắc, bền lâu. Bữa ăn gia đình thể hiện ý nghĩa
sâu sắc về khái niệm “tổ ấm”, tạo thành công việc thường nhật và là nơi
tuyệt vời để những người thân yêu chia sẻ những tâm tư tình cảm với nhau
và nó còn là nơi để cho những đứa con có thể học cách lắng nghe, cách
bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình.
26 tháng 10, 2012
Họp mặt nhà Dư
Chúa nhật, ngày 6 tháng 3/2012, nhóm bạn chừng 20 đứa kéo nhau qua nhà Dư bên An phú chơi. Chẳng biết bêb đó phong thủy thế nào mà xem ra bữa đó Âm Thịnh Dương Suy. Các nàng uống bia, ca hát có mòi xôm tụ hơn mấy chàng. Không chừng tại hôm đó có trưởng nhóm Lê Phước Hưng tham dự nên sự thể mới xảy ra như thế chăng?!!!
Vườn nhà Dư ở An Phú
25 tháng 10, 2012
Thăm nhà Lai
Một ngày đầu tháng 7, hình như cũng nhằm Chúa nhật thì phải, nhân dịp Anh Đào cùng một chị bạn (Chị Hoa) ở Sài gòn về Chơi, bạn bè lại hú hí nhau để tổ chức một chuyến đi chơi lên vùng núi nhằm đổi gió.
Kim Chi, Vũ Liên từ Long xuyên chạy về, Kiệp từ Châu Phong chạy qua, Xuyên Nhạc từ Kênh Đào chạy lên tụ tập cùng những gương mặt cũ ở Châu Đốc tại quán càg phê Minh Anh.
24 tháng 10, 2012
Thư tình tuổi 90
Anh ngồi bấu tay vào thành giường nhìn ra ngoài trời. Hình như mưa. Mắt anh mấy ngày nay thấy nắng loà nhoà lại tưởng mưa, thấy mưa thì nhìn như đang nắng xuống. Thằng chắt nội nói, mắt cụ nhìn không rõ nữa, cụ đi đâu để cháu dắt. Nó nói thật em nhỉ, nhưng mình cần gì nó dắt, ví thử có em đến ngoài ngõ kia, anh chẳng nhìn thấy rõ mồn một.
Anh vẫn khoẻ. Mỗi ngày các cháu nó cho ăn năm bữa, mỗi bữa một bát cháo đã nát nhừ. Anh chỉ dám viết thư cho em mà không dám gọi điện vì tiếng của anh nói em chỉ có thể nghe như tiếng rừng phi lao xào xạc.
Sáng nào anh cũng đi thể dục, đi từ mép giường ra tới bậc cửa sổ, vị chi là bốn bước. Bốn bước mà đi mất hai giờ, mồ hôi đổ vã ra, sảng khoái ghê!
Nay con cháu đông rồi, anh không phải đánh máy như ngày xửa ngày xưa nữa, các cháu giúp ông. Nhưng khi viết thư cho em, anh phải tự đánh máy lấy. Thư này anh viết từ mùa hè, giữa hè, đến đúng mùa đông thì xong, mỗi ngày anh viết quần quật được hai dòng. Ngày nào viết đến ba dòng thì phải truyền một lọ đạm.
Nhớ cách đây chừng 50 năm em nhỉ, chúng mình chạy ào ào trên bãi biển. Em thì lúc nào cũng hét lên: Thích quá cơ. Còn anh thì chạy theo sau nhìn em, thấy đôi chân em trắng loáng trong ánh chiều hoàng hôn ở bãi biển mà nhớ mãi. Giờ vẫn nhớ đấy. Hôm rồi, nhớ em quá bảo đứa cháu nó đưa ra biển. Đinh nhấc chân bước, định hổn hển nhắc lại lời em nói, thích quá cơ, nhưng suýt nữa người anh đổ chúi xuống vì gió biển thổi.
Nhận được tin em đã hết ốm, đã ăn được mỗi bữa năm thìa cháo bột mà mừng quá. Ăn năm thìa là tốt rồi, ăn nhiều quá không nên em ạ. Anh khoẻ thế này mà chỉ ăn bốn thìa thôi là thấy no căng. Nhớ ngày xửa ngày xưa vẫn thích ăn cơm nguội với nước cá kho. Vừa rồi, tự dưng thèm cơm nguội cá kho, ăn một chút thôi mà miệng anh như ăn phải đá hộc, đau tê tái.
Anh nhắc nhé, nếu ngoài trời có gió là em không được ra ngoài. Hôm qua, mấy đứa cháu bảo ông ơi, ra sân hóng mát, gió nồm mát lắm ông ạ. Theo chân nó vừa ra tới sân, ngọn gió nồm suýt thổi anh bay lên nóc nhà, may có hai thằng cháu giữ chặt.
Sắp tới ngày sinh nhật em nhỉ. Thế là em đã tròn tuổi 80. Hôm đó anh sẽ cố gắng điện thoại. Nhưng anh nói trước, nếu em nghe tiếng xào xào tức là anh nói rằng em đấy hả. Khi nghe tiếng thùm thùm tức là anh đang chúc em sinh nhật vui vẻ. Đến khi nghe tiếng phù phù nhiều lần là anh đang hôn em.
Nhớ hồi ấy, anh đưa hai tay lên nhấc bổng em quay mấy vòng giữa trời, em cười rất to. Giờ anh nhìn lại đôi tay mình, hình như tay ai, nhìn rất tội. Hôm qua anh cố nhấc con búp bê bé tý lên cao mà nghe tiếng xương cốt kêu răng rắc, sợ quá nên thôi.
Em ngủ ngon không?
Anh chợp mắt từ chập tối. đến khoảng 9 giờ là dậy, ngồi, nhìn ra trời đêm. Mấy đứa cháu nói ông ngủ ít quá. Anh bảo, thì đến khi ông ra đi, xuống đất, ông ngủ cả ngày lo gì.
Thỉnh thoảng, anh vẫn mở máy tính, xem lại mấy bài viết trên blog hồi ấy, thấy rất vui. Chắc giờ mấy ông, mấy bà blogger cũng không còn mấy ai nữa, lâu chẳng thấy ai vào blog nữa. Lũ cháu hỏi, ông ơi, blog là gì. Chúng nó bây giờ chẳng có blog. Ngồi bô đi ị mà vẫn có màn hình máy tính ở miệng bô, thích thật. Thời buổi giờ hiện đại quá, mình chẳng biết gì. Nhà anh, có cái máy giặt, con cháu nó đi làm, điều khiển từ xa, điều khiển cả rôbốt. Anh ngồi, rôbốt nó đến, nó cởi áo anh ra, nó gội đầu cho anh, tắm táp, rồi còn mang áo quần đi giặt. Lũ trẻ bây giờ yêu nhau cũng nhờ rôbốt làm hộ. Máy chữ không cần đánh, muốn viết gì, chỉ cần đọc là máy tính tự gõ chữ. Nhưng tiếng anh phì phèo quá nên máy chữ nó đánh sai hết cả. Ai đời anh viết, em ơi, anh nhớ em lắm nhưng vì miệng anh móm mém phì phò nên máy nó nghe không rõ, nó đánh thành: Phem phơi, phanh phớ phem phắm. Thế mới bực!
Anh không muốn gọi em là bà. Cứ gọi nhau bằng anh, bằng em thế nghe ngọt ngào. Hai ngày nữa anh tròn 90 tuổi. Anh đợi thư em.
Mà nếu không gửi được thư thì bảo rôbốt nó mang thư đến cho anh em nhé.
Anh dừng bút.
Thắng chắt nội đang mang chén cháo bột đến để cho anh ăn.
Chúc em ngủ ngon nhé. Nhớ đừng ra gió.
Tăng Ngọc An ST
23 tháng 10, 2012
Ngày Phụ nữ VN
Lấy lý do cô nàng Sang bị bệnh sơ sơ gì đó, nhón bạn dưới Mỹ đức kéo lên thăm, mang theo một nồi lẩu cánh gà, lòng gà và vào món đồ nguội do chị Hai Huệ chế biến. 6h30 chiều mới alô cho bạn bè cùng đến thăm Sang, nhân tiện mừng ngày Phụ Nữ VN luôn thể.
Do không hay trước nên bạn bè đến tham gia không được đông...
Thất Sơn Du Hí
Chúa nhật, 21/10, nhàn cư vi bất thiện, chẳng biết làm gì nên sau cữ cafe sáng ở quán Phương Thảo, cả bọn móc phone ra í ới gọi lung tung, rủ rê nhau vào Chi Lăng thăm Quan, Tài, Liễu...
10giờ, "Tuấn Que" (con Bác Năm Sánh) nổi máu ga-lăng-xăng, xách chiếc xế hộp chở mấy chị em phụ nữ (Quang Thùy cũng liệt vào nhóm này, hé hé...), còn cánh mày râu thì chạy honda thẳng hướng Chi lăng...
Rớt lại mấy vị đến muộn Vũ Liên (chay xe từ dưới Long xuyên lên), Cẩm Nhuần (bận Ma ki dê) và Hồng Phượng (Chờ xin phép ông xã), nên Nhạc, Kiệp và Quốc phải ở lại chờ dài cổ...
10 giờ rưỡi, 3 vị cô nương lần lượt lọ mọ đến điểm hẹn. Lập tức mỗi chàng một nàng vội vã đèo nhau lên đường cho kịp... xơi mồi cùng tốp đi trước.
Bạn bè gặp nhau vui vẻ ở nhà Tài:
Vui gì thì vui, nhưng kiến cắn bụng rồi, vào tiệc thôi!
22 tháng 10, 2012
Sau 34 Năm Hội Ngộ Bạn Cũ...
Ngày 20/10/2012:
Alo! Nhạc hả ? ! ngày mai đi Chi lăng ,đến nhà thằng Lý nam Tài ( C1)chơi, mày sẽ gặp nhiều thú vị và bất ngờ...
-Ờ...! Ok.Mai gặp...
Sáng 21/11/2012,
Ở nhà ăn sáng với vợ xong, rủ bà xã cùng đi chơi cho biết Chi lăng ,và làm quen với bạn bè, nhưng vợ từ chối khéo ( có lẽ thông cảm và không muốn làm chồng cụt hứng và khó xử, đây là một trong những nét đáng yêu quí của bà xã mình !hì..hì.)
Địa điểm tập kết đoàn quân đi quậy: Quán Cà phê Phương Thảo
Sơn Nam: Nhà văn miệt vườn
Thuở sinh thời, nhà văn Sơn Nam được
người đọc gán cho nhiều cai tên nghe rất lạ: Ông Già Đi Bộ, Ông
Già Nam Bộ, Ông Già Ba Tri hoặc Nhà Nam Bộ Học, Pho
Tự Điển Sống Về Miền Nam … Tuy nhiên, theo tôi, danh hiệu Nhà
văn Miệt Vườn là ý nghĩa hơn cả.
Sơn Nam (1926-2008)
Xưa kia người ta đã dùng danh từ Miệt
Vườn để chỉ Nam kỳ Lục tỉnh từ thời nhà Nguyễn, tức là khoảng từ năm
1832 (cải cách hành chính của vua Minh Mạng) tới năm 1862 (khi Pháp chiếm 3
tỉnh Miền Đông) và năm 1867 (khi Pháp chiếm nốt 3 tỉnh Miền Tây).
Năm 1832, Vua Minh Mạng đã đổi các Trấn thành Tỉnh,
đặt ra Nam Kỳ và chia đất Nam Kỳ, vốn trước là Tổng trấn Gia Định, thành 6 tỉnh
nên gọi là Nam Kỳ Lục tỉnh hay được gọi tắt là Lục
tỉnh. Đó là các tỉnh:
(1) Phiên An, năm 1836 đổi thành Gia Định (tỉnh
lỵ là tỉnh thành Sài Gòn);
(2) Biên Hòa (tỉnh lỵ là tỉnh thành Biên Hòa);
(3) Định Tường (tỉnh lỵ là tỉnh thành Mỹ Tho) ở
miền Đông;
(4) Vĩnh Long (tỉnh lỵ là tỉnh thành Vĩnh Long);
(5) An Giang (tỉnh lỵ là tỉnh thành Châu Đốc);
(6) Hà Tiên (tỉnh lỵ là tỉnh thành Hà Tiên) ở
miền Tây.
Nhà Nguyễn đặt tên Lục tỉnh dựa
theo 6 từ cuối của một câu thơ cổ:Khoái mã gia biên vĩnh định an hà (Phóng
ngựa ra roi giữ yên non nước). Do đó, các tỉnh có tên: Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, AnGiang
và Hà Tiên. (Theo Nguyễn Quang Thắng trong Trịnh
Hoài Đức, một trong Gia Định tam gia, Nam Bộ xưa và nay, NXB TP. HCM,
2005, tr.147).
Nam kỳ Lục tỉnh
Ngay từ ban đầu thành lập Lục tỉnh, thành phố Sài
Gòn trực thuộc tỉnh Gia Định. Trải qua năm tháng, hai tỉnh Biên Hòa và Gia Định
tách khỏi nhóm Lục tỉnh, thuật ngữ Lục tỉnh thật sự chỉ còn ‘Tứ tỉnh’ nằm trong
khu vục Đồng bằng sông Cửu Long, được gọi chung là Miền Tây hoặc Miệt
Vườn. Hãy nghe chính Sơn Nam viết về Miệt
Vườn:
“Trước năm 1945 và có lẽ trước năm 1960,
người địa phương không gọi ‘Đồng bằng sông Cửu Long’ mà gọi là Miệt Vườn, với
câu hát khá phổ biến:
Mẹ mong gả thiếp về vườn,
Ăn bông bí luộc, dưa hường nấu canh…
( Thủ bút của nhà văn Sơn Nam )
Đọc những tác phẩm của Nhà văn Miệt vườn Sơn
Nam ta có dịp làm quen
với rất nhiều địa danh miền Nam . Những tên bắt đầu bằng Cái có
đến hơn một chục nơi như Cái Bè, Cái Bé, Cái Côn, Cái Hươu, Cái Mơn, Cái Nai,
Cái Nước, Cái Răng, Cái Sắn, Cái Thia, Cái Vồn, Cái Vừng… Những địa danh bắt
đầu bằng Giồng có Giồng Ông Tố, Giồng Tháp, Giồng Tượng,
Giồng Xe; Gò có Gò Bầu, Gò Găng, Gò Quao, Gò Tre, Gò
Xoài; Hòn thì gồm Hòn Chông, Hòn Đất; Vàm có
Vàm Cỏ, Vàm Láng, Vàm Nao, Vàm Rầy, Vàm Thuận, Vàm Trư; còn Xẻo thì
có những tên ngộ nghĩnh như Xẻo Bần, Xẻo Lá, Xẻo Nước, Xẻo Rô…
Miệt vườn còn có những cái tên ‘sặc mùi’ Nam bộ,
mang âm hưởng Cao Miên, như Cà Bây Ngọp, Chắc Cà Đao, Chắc Băng, Láng Thé, Lấp
Vò, Man Thít, Mo So, Soài Rạp, Tà Lơn, Thốt Nốt và hàng loạt những địa danh ‘bí
hiểm’ như Tắt Ổ Cu, Tắt Ăn Chè, Tắt Quanh Queo hay Trà Ết, Trà Lồng, Trà Niền…
Đọc Sơn Nam
ta có dịp khám phá những địa danh vừa lạ lẫm, vừa mộc mạc, tưởng chừng
như lạc vào một thế giới khác. Hãy nghe Sơn Nam giải thích về cái tên Cà
Bây Ngọp trong Tình nghĩa giáo khoa thư:
“Xứ Cà Bây Ngọp, nghĩa là trâu chết. Hồi đó
nghe nói trâu “len” tới đây thất bại, phong thổ ẩm thấp, trâu chết nhiều quá.
Họ đặt tên kỷ niệm luôn… Bởi vậy dân tình bệnh hoạn, thưa thớt, làng này chưa
cất nổi cái trường học…”
Qua câu chuyện về xứ Cà Bây Ngọp, ta có dịp biết
đến từ “len” trâu, tên một truyện ngắn của Sơn Nam đã được dựng thành
phim Mùa len trâu bởi đạo diễn trẻ Nghiêm Minh. Ông giải
thích: “Len ở đây có gốc tiếng Khơme, là tháo ra, cởi ra. “Len Krabey”
nghĩa là tháo cho trâu chạy ra. Hồi xưa trâu nhiều, mà người thương trâu như
bạn, giăng mùng cho trâu ngủ để khỏi bị muỗi chích, mùa nước nổi phải dắt trâu
lên núi tránh nước”.
Sơn Nam (1990)
Chủ nhân đất miệt vườn gồm ba dân tộc: người
Việt, người Hoa và người Khơme. Qua các tác phẩm của Sơn Nam
ta được làm quen với những lễ hội như đua ghe ngo, lễ cúng trăng, ngày bổ
tróc của người Khơme. TrongHồi ức Sơn Nam , tác giả kể lại:
“…Khi vào trường làng, tôi học chung với vài
cậu bé Việt lai Hoa, Hoa lai Khơme. Học trò không mấy đứa có khai sinh, tên
nghe ngộ nghĩnh như thằng Tứng, thằng Khưng, thằng Xa Ðơn. Lắm đứa ở trần mặc
quần cụt vào lớp, thỉnh thoảng lén ra ngoài sân rồi trở về nhà…
…Nhưng sôi động nhất là sự hiện diện của
người Hoa, phần lớn là Triều Châu, họ mua bán sỉ lẻ, đặc biệt là tổ chức sòng
bạc ngày đêm, gần như là công khai. Thanh niên phần đông là lai tạp, chiều
chiều đến học võ và trình diễn nào võ Khơme, võ Việt Nam (?), võ Triều Châu, võ
Lào, võ Xiêm (nhất là dịp lễ hội ở chùa Phật người Khơme)”.
Người Khơme xuất hiện trong tác phẩm của
Sơn Nam
với nhiều tình cảm ưu ái. Bút hiệu Sơn Nam của ông cũng gắn với họ
một kỷ niệm. Sơn Nam nói, ông là người Kinh, cha mẹ đặt tên là Phạm Minh Tài,
(tên trong giấy khai sinh là Phạm Minh Tày, giải thích cái tên này, ông bảo do
làng xã ghi lộn chữ “i” thành chữ “y”), sinh ở An Biên, tỉnh Rạch Giá, nay là
tỉnh Kiên Giang. Lúc còn nhỏ mẹ ông không đủ sữa cho ông bú, nên ở xóm có một
bà mẹ Khơme tốt bụng, đã cho ông bú ‘ké’. Sau này, lớn lên viết văn, để nhớ ơn
bà, ông lấy bút hiệu khởi đầu bằng chữ Sơn (biểu thị một họ
lớn, trong một số họ phổ biến của người Khơme) còn chữ Nam là ở miền Nam . Bây giờ, nếu ai hiểu bút danh
của ông là “một đỉnh núi cao ở miền Nam ”, thì theo tôi, cũng rất phù
hợp.
Trong Hồi ký Sơn Nam ông đã tự thuật:
Tôi chào đời vào năm 1926 ở vùng U Minh Hạ,
thuộc khu vực rừng tràm trầm thủy ven vịnh Xiêm La mà Pháp khoanh vùng để bảo
quản và quản lý khá chặt chẽ, tuy nhiên người dân địa phưong có thể đốn cây
tươi để bán lẻ tẻ hoặc dùng trong gia đình. Ðây là khu vực thuộc huyện An Biên,
tỉnh Kiên Giang, với con rạch Thứ Sáu, hệ thống rạch mà Gia Ðịnh Thành Thông
Chí đời Gia Long đã mô tả. Hơn chục con rạch ngắn, cong queo, bắt nguồn từ giữa
rừng chảy ra biển, từ Ðông sang Tây, chẳng dính dấp gì đến con sông Hậu Giang.
Mùa mưa, nước tràn vùng trũng, chịu ảnh hưởng hải triều, 24 giờ có hai lần lớn
ròng, vì vậy, nước dưới rạch như mãi lưu thông.
…Lớn lên, đâu khoảng tôi 6 tuổi, cha tôi là
con út trong gia đình bèn rời bỏ quê hương đi khẩn đất, lên phía Bắc, ven
vịnh Thái Lan, cách thị xã Rạch Giá chừng 15 kilômét phía Hà Tiên
(nay gọi là vùng ven khu Tứ Giác). Bấy giờ con kinh Rạch Giá-Hà Tiên vừa đào
xong nhưng chưa được sử dụng vì bên bờ thưa thớt dân cư, nước phèn mặn. Dọc theo
mé biển nhiều giồng cát cao ráo đã có người Khơme định cư, co cụm trên cao, ven
giồng là đất thấp, úng lụt. Thêm vài ngọn đồi thơ mộng, dính vào đất liền, gọi
là vùng Hòn Chông, Ba Hòn với hai cột đá cao, nằm nghiêng một chiều, gọi hòn
Phụ Tử rồi lên Hà Tiên gặp nhiều hòn đá vôi (xi măng Hà Tiên). Ăn đến biên giới
là những thắng cảnh như Tô Châu, Đông Hồ, Thạch Ðộng, gần xa ngoài biển là hàng
chục đảo lớn nhỏ, khi trời quang mây tạnh, nhìn thấy dạng đảo Phú Quốc khá cao
và dài. Không khí u buồn nhưng chưa quá ảm đạm. Còn đâu thời Mạc Thiên Tứ với
Chiêu Anh Các!”.
Người đọc những tác phẩm của Sơn Nam
cảm thấy thích thú qua ‘ngôn ngữ kể chuyện’ và qua những đối thoại của
các nhân vật ‘miệt vườn’. Ngôn ngữ miền Nam này bao gồm cả ngữ âm,
ngữ pháp lẫn từ vựng. Cũng phải nói thêm, không phải chỉ mình Sơn Nam
mới có loại ngôn ngữ đó. Đọc Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Lê Ngọc Trụ,
Vương Hồng Sển, Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Bình Nguyên Lộc… người ta thấy ngay nét
đặc trưng của miền Nam thời tiền chiến nhưng phải đợi đến thời của Bình Nguyên
Lộc, Sơn Nam và sau này là Nguyễn Ngọc Tư người đọc mới cảm nhận hết được cái
mộc mạc, chân chất của những người uống nước sông Cửu Long.
Với tư cách là người đi trước, Sơn Nam
nhận xét về nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư nổi tiếng với Cánh đồng
bất tận đã được dựng thành phim: “Cô Tư viết hay nhưng
hỗn. Văn phong của cổ hơi cà rỡn. Cái nhìn trong “Cánh đồng bất tận” không
rộng, nông dân ở đó không nhìn hẹp như thế mà mỗi cái họ đều có lý của họ. Ngọc
Tư thông minh, sẽ còn phát triển nữa nhưng cần người chỉ dẫn sau vụ lùm xùm về “Cánh
đồng bất tận”.
Sơn Nam đôi lúc còn làm công việc
giải nghĩa từ vựng của nhà ngữ học. Kho từ điển của ông thật phong phú: cũng
một chữ Ghe ta còn biết thêm Ghe bè, Ghe cui, Ghe diệu, Ghe
giản, Ghe hát, Ghe hầu; Nước còn có Nước rặc, Nước rằm… Các
công tử người miền Nam lúc nào cũng ‘xính xái’, có khi ‘xổ nho’ mặc dù ăn diện
rất ‘bảnh’, ‘xài’ tiền toàn ‘giấy bộ lư’, ‘giấy con công’, ‘giấy năm trăm’… Dân
miền Nam đi ‘mần’ ở tận ‘miệt dưới’, có khi lại lên đến ‘miệt trên’…
Nhà văn Nguyễn Trọng Tín, vốn là bạn văn của
Sơn Nam , nhận xét: “Nhà
văn Sơn Nam là
một trong rất ít người còn lại hiểu biết nhiều về Nam bộ. Ông có nhiều cống
hiến cho văn chương và là người đứng đầu trong số các nhà văn Nam
bộ. Bên cạnh sự nghiệp sáng tác, ông còn rất nhiều công trình khảo cứu và
sưu tập về văn hoá Nam
bộ. Ðặc biệt, ông là người hiểu biết quá trình hình thành dải đất Nam
bộ. Từ hiểu biết uyên bác đó ông lại thể hiện bằng những trang viết rất
giản dị khiến nhiều tầng lớp độc giả đều đọc và dễ hiểu tác phẩm của ông”.
Sơn Nam (1999)
Sơn Nam bắt đầu nổi danh trên văn
đàn với tập truyện ngắn Hương rừng Cà Mau, xuất bản tại Sài Gòn
năm 1962. Ngoài truyện ngắn, ông còn thành công với những công trình biên khảo
như Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Văn minh miệt vườn Gia
Ðịnh xưa, Bến Nghé xưa… Nhà văn Sơn Nam tâm sự:
“Lịch sử Nam
bộ Việt Nam
là lịch sử của công cuộc khẩn hoang trường kỳ và tự lực. Ý thức khẩn
hoang mở đất ăn sâu vào máu thịt tôi. Ðời ông nội rồi đời cha tôi lo khẩn
hoang, mở đất. Nên những trang viết của tôi dành cho việc khẩn hoang mở đất và
thế là viết về khẩn hoang trở thành sở trường của tôi. Hơn nữa, đây cũng là đề
tài mà người dân Nam bộ rất quan tâm, bởi trong ký ức của những người Sài Gòn
cũ, người Nam bộ cũ, vẫn còn lưu giữ nhiều ấn tượng trong việc vật lộn với
thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên trong những ngày đầu mở đất, mở nước.
…Nam bộ nói chung, Sài Gòn nói riêng nào phải
là ‘địa đàng’. Xưa kia, nước Phù Nam với trình độ cao đã sa lầy và bị tiêu diệt
tại đây. Người Khơme bản địa sống co cụm trên những giồng cao ráo, làm ruộng
thâm canh, không thích triển khai diện tích vào nơi đầm lầy đầy rắn, cọp và
bệnh sốt rét. Người Hoa vẫn giữ tập quán thâm canh, ở đất cao, làm rẫy rau cải,
khoai lang, không xông xáo ‘phá sơn lâm, đâm hà bá’ như dân Việt.
Dân ta đã định cư ở nơi đất thấp, nước phèn,
đốn củi, phá rừng. Ở rạch Thị Nghè, ăn sâu vào phía Bà Chiểu (Cầu Bông ngày
nay) dân miền Trung vào, sống với nghề chài lưới: bán cá để mua gạo, mua trầu
cau từ nơi khác sản xuất. Cảng Sài Gòn lần hồi thành hình, dần dần đem lại phồn
vinh cho một vùng đất trù phú và lý tưởng. Vùng đất Nam bộ, vùng đất Sài Gòn –
Gia Định ngày nay. Công ơn của tổ tiên thật là to lớn”.
Ông còn bước sang ‘âm nhạc miệt vườn’ hay còn gọi
là ‘Đờn ca tài tử’ vốn gắn bó với người miệt vườn từ bao thế hệ. Sơn Nam
khảo cứu về cội nguồn của vọng cổ như sau: “Bản Dạ cổ hoài lang xuất
hiện và phát triển hàng đôi chục năm mới tạm định hình. Thoạt tiên, người chưa
hội nhập với khung cảnh đặc thù của đồng bằng Nam Bộ thấy như lạ tai, ngoại
lai, nhưng lần hồi nhiều người nhìn nhận nó. Có lẽ hơi hướm đầu tiên của nó là
bản Hành Vân ngắn gọn, từ Huế đưa vào một khu vực có cổ nhạc thịnh hành ở Long
An. Rồi nhạc sĩ Cao Văn Lầu gặp hoàn cảnh buồn bực của gia đình, vì nghèo túng
phải tha phương xuống tận mũi Cà Mau, với tay nghề, với tâm hồn mở rộng, ông
hội nhập dễ dàng với người Hoa (triều Châu) đang chiếm tỷ lệ đáng kể tại Bạc
Liêu. Nhờ học thêm nhạc lễ với ông Nhạc Khị (Khởi), ông hoà đàn cùng bạn bè,
hành nghề nhạc lễ để mưu sinh. Nhớ đến người vợ mà cha mẹ không hài lòng vì
không sinh con nối dõi, ông đau khổ vô cùng thử soạn ra bản Dạ cổ hoài lang để
giải sầu”.
Nhà văn Sơn Nam
(trái) và nhà thơ Kiên Giang (1960)
Thời cuộc đổi thay, chúng ta bắt gặp một
Sơn Nam
“đổi đời” sau ngày Sài Gòn sụp đổ. Ông viết trong Cầu xin hai
chữ bình an kể lại những ngày đầu khi Sài Gòn thất thủ:
“… Hai ngày qua, nhiều sự việc xảy ra. Ở
phường vài cậu đến, kẻ ăn nói cộc lốc, kẻ rất nhã nhặn. Nhưng nói chung, ai
cũng bảo tôi nên ‘kiếm cơ sở’ xác nhận. Tôi hiểu ngầm rằng mình đã dính líu tới
cách mạng tới mức độ nào. Quả thật, tôi không phải là đảng viên cộng sản, là
người có dính líu với cơ sở nào cả. Họa chăng tôi là người trong ban chấp hành
của Hội Văn Bút [Pen Club], một tổ chức nghe ra thì ‘quốc
tế’ nhưng chắc là không được ta ưa thích. Còn chuyện ở tù sau chót này thì
chẳng có giấy tờ gì cả. Tôi ra tù vì ‘công an quốc gia’ bỏ khám, rồi chúng trốn
mất tích.
Vài người bạn hiền lành thủ thỉ với tôi
chuyện ‘vượt biên’ nhưng tôi chẳng cần nghe. Tôi chẳng biết tiếng Anh, nghĩ
rằng hồi xưa biết chút ít chữ Pháp là đủ rồi. Chẳng có bà con, anh em nào ở
nước ngoài cả, dòng họ bà con xa gần của tôi, tất cả đều còn ở U Minh… Quan
điểm của tôi là cứ quê hương ‘là đủ rồi’.
Đoàn Nam Sinh viết Nhớ Sơn Nam trên Tuổi
Trẻ nhân ngày giỗ đầu củaÔng già đi bộ (13/8/2009):
“…Tôi nhớ bữa đưa tang Bùi Giáng ở Gò Dưa,
sau bài ai điếu của Cung Văn là điếu văn của Hội nhà văn thành phố. Chú [Sơn
Nam
] moi bài viết trên túi áo vét xanh nhàu nhĩ, sửa lại đôi kính cũng
rầu rĩ như ông chủ và run run nói:
‘Anh Giáng ơi! Sáng nay anh Nguyễn Quang Sáng
nói với tui: anh là lớp trước, lại ở trong này, anh đại diện cho hội đọc dùm
điếu văn này. Dzậy đây là phần của hội nghe anh Giáng…
‘…Tui đọc dzậy là xong rồi, còn đây là của
tui. Anh Giáng ơi! Sinh thời anh ăn mặc xốc xếch, áo trong dài hơn áo ngoài…
nhưng văn thơ của anh ngay ngắn đường hoàng. Anh có nề gì cháo chợ cơm hàng, cả
cơm thừa canh cặn, nhưng câu chữ anh xài sạch sẽ, ý tứ sáng trong. Cả đời anh
lang thang khi chùa khi chợ có cố định đâu đâu, mà bữa nay anh đi có quân canh
lính gác, có vòng hoa của thành ủy-ủy ban, có Hội nhà văn, vậy là anh có hộ
khẩu Sài Gòn rồi đó nghe anh Giáng…”
Văn Lang trong Nhớ về nhà văn Sơn Nam
:
“…Bây giờ mọi sự đã lâu quá rồi, ngày đó
chuyện trò với bác những gì, tôi chỉ nhớ được rất ít. Chuyện về cụ Phan Chu
Trinh, bác nói: “Căn nhà ở Chợ Cũ (Sài Gòn), nơi cụ Phan mất và làm đám tang ở
đó, bác có đề nghị nên bảo tồn để làm di tích lịch sử mà “nói hoài không ai
nghe”.
Khoảng một tuần sau đó, tôi ra thăm Viện Sử
học, có kể chuyện mà bác Sơn Nam nói về căn nhà ở Chợ Cũ cho một nhà nghiên cứu
về lịch sử cận đại Việt Nam nghe, vị này nói nho nhỏ: “Anh biết không, ở Huế
dân chúng có đúc một tượng đồng của cụ Phan Bội Châu to lắm, thế mà nó không
được dựng lên, cứ để nằm dài dưới đất. Người ta bảo là nếu tượng to thì phải là
tượng của người khác, bây giờ chưa có tượng nào to cả, dựng cụ Phan lên thì cụ
to nhất nước còn gì! Tượng cụ Phan đã đúc sẵn rồi mà còn thế, huống gì căn nhà
mà anh vừa nói!”
Về “Bến Nhà Rồng” – lúc đó mới được trùng tu
xong để làm chỗ kỷ niệm nơi Nguyễn Ái Quốc rời Việt Nam đi Pháp lúc trước – bác
bảo: “Chỗ đó có phải đâu! Tại nó có vị trí tốt nên mới được chọn đó thôi. Hồi
đó có hai hãng tàu thủy khác nhau, hãng tàu mà cụ Nguyễn làm thì bến của nó nằm
ở chỗ khuất tuốt phía trên (của sông Sài Gòn), khó thấy, còn cái “Nhà Rồng” là
nhà của ông chủ hãng tàu kia, nằm ở chỗ ngon lành…”
Hotel des Messageries Maritimes
(ngày nay là Bến Nhà Rồng)
Nhà văn Miệt vườn Sơn Nam qua đời lúc 13g chiều
ngày 13/8/2008 tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định, thọ 83 tuổi. Vợ của nhà văn, bà
Đào Thị Phán, hiện sống cùng vợ chồng ông Trần Văn Nghị – bà Đào Thúy Hằng (con
gái cả của nhà văn Sơn Nam
) tại một vùng quê ở Mỹ Tho.
Tháng 8/2011, gia đình ông xin rút tên Sơn Nam
khỏi Giải thưởng Nhà nước với lý do “Sinh thời ông cụ không màng giải
thưởng, danh vọng, chỉ muốn viết để kiếm sống và để đi vào lòng người đọc”.
Thay mặt gia đình, ông Trần Đức Nghị, con rể của
nhà văn Sơn Nam
, cho biết: “Trước khi qua đời năm 2008, ông cụ cũng nghe phong thanh
chuyện giải thưởng nhưng ông gạt đi. Ông cụ thường nói, người viết văn sống
trong lòng người đọc là chính và ông viết cũng để kiếm sống, không mong được
giải thưởng gì. Giờ đây ông cụ đã mất, gia đình chúng tôi không
muốn đưa tên ông ra bình xét giải thưởng mà chỉ muốn cho người quá cố được yên
nghỉ. Cả má tôi và vợ chồng tôi đều nhất trí như vậy”.
Gia đình nhà văn Sơn Nam là người mới nhất muốn
rút khỏi danh sách đề cử hai giải thưởng văn học trong nước năm nay, là giải
Nhà Nước và giải Hồ Chí Minh. Các nhà văn, nhà thơ Nguyễn Khoa Ðiềm, Nguyên
Ngọc, Sơn Tùng, cũng xin rút ra khỏi danh sách dự giải.
Mộ Sơn Nam
Trong gần 60 tác phẩm của Sơn Nam ,
đáng chú ý có:
- Chuyện xưa tình cũ (1958)
- Tìm hiểu đất Hậu Giang (nghiên cứu, 1959)
- Hương rừng Cà Mau (1962)
- Chim quyên xuống đất (1963)
- Hình bóng cũ (1964)
- Vạch một chân trời (1968)
- Gốc cây – Cục đá & Ngôi sao (1969)
- Lịch sử khẩn hoang miền Nam
- Đình miếu & lễ hội dân gian miền Nam
- Danh thắng Miền Nam
- Theo chân người tình & một mãnh tình riêng
- Từ U Minh đến Cần Thơ – Ở chiến khu 9 – 20 năm
giữa lòng đô thị – Bình An
- Tìm hiểu đất Hậu Giang & lịch sử đất An
Giang
- Xóm Bàu Láng
- Hồi ký Sơn Nam (Nhà xuất bản Trẻ, tổng
hợp từ 4 tập hồi ký: “Từ U Minh đến Cần Thơ”; “Ở Chiến Khu 9”; “20
năm giữa lòng đô thị” và “Bình An” đã được xuất bản từ năm 2000
đến năm 2005).
Nguyễn Ngọc Chinh
20 tháng 10, 2012
Chúc sinh nhật Thanh Nhàn
Thay mặt Ban Ăn nhậu mừng sinh nhật Thanh Nhàn "Đầy năm", Đạt nhiều mong ước và nhiều vui vẻ...Gia đình đạt nhiều thành đạt.
Cà Rem đê ê ê...
Cà lem (kem cây)
Vừa dài vừa cứng lại ướt mèm
Thậm thụt ra vào cái lỗ đen
Các bà, các chị thòm thèm mút
Mấy anh, mấy chú đẩy đưa thêm
Khi xưa bóng bẩy to lừng lững
Bây giờ tiu nghỉu bé hom hem
Sướng khoái mặc tình ai liếm láp
Ôi khổ chưa kìa cái thân em!
Ăn cà lem
Một khúc cứng đờ khói bốc hơi
Một lỗ tòm hom nhép liên hồi
Đút vào chùn chụt phì phò thở
Rút ra nhóp nhép hít hà hơi
Hì hụi ra vào rân trời sướng
Hổn hển dưới trên khoái trân người
Đẩy đưa hai mép tèm nhem ướt
Oh yeah... tuyệt đỉnh tợ lên trời!
Khói Biển Đông
Cháu lộn lèo của Hồ Xuân Hương
Vừa dài vừa cứng lại ướt mèm
Thậm thụt ra vào cái lỗ đen
Các bà, các chị thòm thèm mút
Mấy anh, mấy chú đẩy đưa thêm
Khi xưa bóng bẩy to lừng lững
Bây giờ tiu nghỉu bé hom hem
Sướng khoái mặc tình ai liếm láp
Ôi khổ chưa kìa cái thân em!
Ăn cà lem
Một khúc cứng đờ khói bốc hơi
Một lỗ tòm hom nhép liên hồi
Đút vào chùn chụt phì phò thở
Rút ra nhóp nhép hít hà hơi
Hì hụi ra vào rân trời sướng
Hổn hển dưới trên khoái trân người
Đẩy đưa hai mép tèm nhem ướt
Oh yeah... tuyệt đỉnh tợ lên trời!
Khói Biển Đông
Cháu lộn lèo của Hồ Xuân Hương
Ở không, tập tành theo Nữ sĩ Hồ Xuân Hương tí cho vui thôi. Đừng liệng đá nhé!
Dẫu sao chắc cũng ngon hơn "Bánh mì Sài gòn" của Võ Phước Hưng! Hé hé....
Dẫu sao chắc cũng ngon hơn "Bánh mì Sài gòn" của Võ Phước Hưng! Hé hé....
Bánh mì "tàu ngầm" Sài Gòn nức tiếng thế giới
Bánh mì Sài Gòn ở TP HCM. Ảnh: Phan Quang
Không lâu sau khi những con tàu đầu tiên chở bột mì từ "mẫu quốc" Pháp ghé bến Bình Đông, thì người dân Sài Gòn biết đến thứ bánh mì que (baguette) mà người Mỹ còn gọi tiếng lóng là tàu ngầm...
Tàu ngầm đang rất nóng trong dòng thời sự biển Đông. Bánh mì Sài Gòn cũng nức tiếng khắp nơi trong dòng thời sự thế giới.
Tờ Guardian, rồi tờ National Geographic, đã bình chọn bánh mì Sài Gòn vào hàng top trong những loại thức ăn đường phố ngon nhất. Chỉ cần gõ hai chữ "banh mi" là có thể tìm thấy trang web của tờ "The Guardian" này. Bảng bình chọn là do hãng Lonely Planet thực hiện.
Thuở ban đầu nhập cư, nó trở thành "kẻ Việt gốc Pháp", đến bây giờ thế giới chỉ biết đến bánh mì Sài Gòn. Còn tổ tông "French baguette sandwich" (bánh mì que Pháp) lại chẳng mấy tiếng tăm trên đất cờ hoa này.
Có lẽ xứ sở của thức ăn nhanh, nhất là loại thức ăn đường phố, là một yếu tố để giúp cho bánh mì Sài Gòn lấy được "thẻ xanh" nhanh chóng trên đất Mỹ.
Tự điển Anh - Mỹ cũng vội đưa từ "banh mi" vào, sau khi, từ Việt Nam, bánh mì Sài Gòn đã sang định cư ở Mỹ. Wikipedia cũng có mục từ "banh mi".
Khách du lịch đến Việt Nam, nhất là dân du lịch bụi, quen dần với hình ảnh đâu đâu cũng có một xe bánh mì nhỏ gọn.
Xe bánh mì truyền thống thường bao giờ cũng có chiều ngang chừng tám tấc đến một thước, rộng chừng năm - sáu tấc. Nửa trên ba phía là kiếng, trưng nào bánh, nào thịt, nào gia vị để nhận vào ổ bánh. Nửa dưới đóng kín thường có một bếp than.
Bánh lúc nào cũng nóng. Bánh nhận đủ sắc màu ẩm thực quốc tế bên trong. Xíu mại, thịt quay, pâté, xá xíu, lòng heo, lòng bò khìa, phô mai, thịt ba rọi, cá mòi "ba cô gái" của Thái...
Nhiều xe bánh mì trông đơn sơ vậy, nhưng nổi tiếng cả vài chục năm, ngay một góc đường, hoặc trước một căn nhà.
Gần đây, lại có thêm những xe bánh mì ổ gầy và lùn tẹt, vừa nhang nhác người đẹp Triệu Phi Yến thời xưa bên Tàu, lại vừa hao hao cô người mẫu ốm nhách Kate Moss bây giờ, chỉ vừa chỗ để quết pâté. Trên xe luôn luôn có ghi địa chỉ online banhmique.com
Đi đã nhiều xứ, tôi chỉ thấy những xe bán bánh mì này là độc bản của Sài Gòn, thảng hoặc bên Pnom Penh, có vài xe. Ở Thái Lan thì hoàn toàn không có.
Chợt đến khi chuỗi bánh mì Tous Les Jours của Hàn Quốc ra đời, với loại bánh que y hệt Sài Gòn, tôi mới nghĩ ở đâu ra. Hàn Quốc không trực tiếp gì đến văn minh Tây, sao Tous Les Jours bên Seoul có bánh mì que. Rồi mấy năm nay sang tìm tương lai ở Sài Gòn?
Vậy là đâm nghi ngờ chắc mấy anh lính củ sâm qua Miền Nam hồi trước 1975, phát hiện được món bánh mì rất Sài Gòn này, một thứ fastfood ra đời sớm hơn cả fastfood Mỹ, bèn bắt chước chăng? Xin hãy cứ tồn nghi như thế cho nó cao trào chủ nghĩa dân tộc.
Bánh mì Sài Gòn phục vụ đủ tầng lớp, giai cấp. Nhiều sinh viên, học trò có bữa meo quá, chỉ mua một ổ bánh mì chan nước xíu mại. Thế là đủ năng lượng cho một buổi sáng.
Thời buổi lạm phát, tôi từng chứng kiến một ông đã ngà ngà say chận xe bánh mì di động rao bằng máy: "Bánh mì Sài Gòn thơm ngon, hai ngàn một ổ." Ông khách say mua một ổ, chàng trai bán bánh mì tính ba ngàn. Thế là xảy ra xô xát, (chửi thề) tại sao rao hai ngàn mà bán ba ngàn? Dạ em chưa có tiền thay cuộn băng...
Nhưng mở băng rao bán bánh mì là văn minh của miệt ngoài. Bên những quận nghèo ở Sài Gòn như quận 4, quận 8, vẫn còn những xe đạp bán bánh mì rao "live", chớ không rao băng, rao nhép như những ca sĩ dzỏm trong các showbiz.
Chừng năm giờ sáng mỗi ngày, đã nghe giọng rao thật ấm của một anh chàng bán rong: "Vừa mới ra lò đây. Ăn nhanh là còn ăn chậm là hết nghen".
Trễ hơn một chút: "Chuyến này là chuyến chót nghen".
Rồi đến tiếng rao già nua, hơi đã mòn mỏi theo tháng năm, hoà với âm thanh cọc cạch từ chiếc xe đạp cũng già nua như chính người bán: "Bánh mì nóng đây".
Rồi tiếng rao nhọn nữ kim của chị chạy xe gắn máy: "Bánh mì nóng giòn!"
Cách đây cả chục năm, bánh mì Như Lan Chợ Cũ - trên đường Hàm Nghi - nổi lên và đẻ ra cái sáng chế nhái bánh của bọn các hãng thức ăn nhanh hamburger Mỹ: bánh mì con cóc.
Ổ bánh mì thay vì que, thì trở thành tròn quay, lại to, mỗi lần cắn miếng bánh thì ruột xì ra tứ phương, đổ vãi tùm lum. Đúng là quái gở của sự "phá chấp" mà thiếu trình độ thâm hiểu về tiện nghi. Cũng may là giờ đây bánh mì con cóc đã tuyệt diệt.
Khổ thay, bọn trẻ bị phương tiện truyền thông làm cho ba cái thứ con cóc hamburger ám vào đầu. KFC đã đi vào ký ức sinh nhật của nhiều đứa trẻ. Bánh mì Sài Gòn đã không được những nhà bảo tồn đưa vào cuộc vận động như một thứ văn hoá cần lưu giữ.
Một ông bạn già mỗi lần ngồi nhậu ở quán Hai Cây Bàng bên quận 4, trước lò bánh mì Vân Đồn, thì cứ thương nhớ đến bánh mì lò than, củi. Đó là ăn một thức mà ngửi được mùi củi, nghe được tiếng củi nổ lép bép, rồi ngửi được mùi bột sống, mùi bánh chín từ lò bánh lan xa.
Ngày xưa, bọn trẻ nào cũng thích bị bệnh. Vì mỗi lần bệnh được hưởng tiêu chuẩn cao hơn. Ở nhà ba má tôi, bệnh là được ăn bánh mì chấm sữa đặc có đường - một loại sữa đang tiếp tục hại bọn trẻ nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vì sữa thì không đủ, mà đường thì quá. Nên miếng bánh mì đã len vào kí ức từ hồi thơ ấu.
Lớn lên, đi học, bánh mì nó theo chân mình suốt cả quảng đời học trò. Bọn học trò ngày ấy dùng từ "gặm", "thổi kèn" để định danh cho hành vi ăn bánh mì. Đó là món ăn vừa gọn, vừa nhanh, vừa ngon cỡ nào cũng có.
Sang thì bánh mì gà quay, heo quay, meo thì bánh mì chỉ chan nước xíu mại thôi. Nhất là ổ bánh mì giấu dưới gầm bàn học, thỉnh thoảng gặm một miếng, nó ngon cái ngon ăn vụng phải biết đến cỡ nào.
Hai năm nay, quán La Dorée trên đường Lý Tự Trọng gần ngã ba Lê Anh Xuân - Lý Tự Trọng, lại làm phong phú thêm nỗi nhớ Nga của những người một thời quen với văn minh của nơi từng được vinh danh là "thiên đường của.. bánh mì đen".
Thế đấy, bánh mì Sài Gòn là một tổng hoà của nhiều thứ. Gốc Tây, ruột Tây, Việt, Tàu, Thái. Hương bánh mì Sài Gòn nó còn quyến rũ đến độ ngày xưa dân miền Tây lên Sài Gòn mà không mua mấy ổ đem về cho sắp nhỏ thì xốn xang...
Rồi lò bánh, rồi tiếng rao, rồi người bán rong, rồi xe bánh mì - gọi là xe, nhưng không có bánh, hoặc chỉ có mấy cái bánh nhỏ cho tiện di dời, mỗi khi thấy bóng thanh tra giao thông, hoặc công an đường phố.
Và cũng quên nói thêm, Hà Nội tuy không có những xe bánh mì như Sài Gòn, nhưng có một tiệm bánh Hà Nội ở đường Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn bự chảng, coi mòi cũng phát đạt.
Có bánh mì Hà Nội không ta?
Ngữ Yên
16 tháng 10, 2012
THÔNG BÁO KHẨN
Vào trang ngayxua dễ hơn
Tôi vừa tình cờ phát hiện ra một kiểu vào trang ngayxua nhanh hơn nhiều so với trước giờ. Điều này có thể giúp các bạn vào thăm trang blog dễ dàng hơn khi mạng internet ở nhà các bạn bị yếu.
Thay vì gõ vào thanh địa chỉ dòng địa chỉ trước giờ là:
thukhoanghia7178.blogspot.com
thì các bạn hay sửa lại một chút như thế này:
thukhoanghia7178.blogspot.co.uk
Tôi đã vô tình tìm thấy trên google một trang ở nước ngoài đã trích dẫn một hình ảnh từ trang ngayxua của tụi mình, và họ để nguồn trích là từ địa chỉ thukhoanghia7178.blogspot.co.uk.
Thấy là lạ, tôi thử vào trang ấy xem sao, thì thật bất ngờ, ngay sau khi bấm enter thì mành hình ngay lập tức hiện lên chính trang blog ngayxua của bọn mình!
Tôi đã thử đi, thử lại nhiều lần 2 địa chỉ này để vào trang ngayxua, thì lúc nào địa chỉ thukhoanghia7178.blogspot.co.uk cũng hiện ra trước địa chỉ thukhoanghia7178.blogspot.com rất nhiều.
Chẳng biết tại sao lại như vậy nữa, vì mình đâu có rành gì mấy vụ mạng miếc. Nhưng cần gì mà tìm hiểu, phải không các bạn?
Từ nay, muốn vào thăm trang blog của tụi mình, các bạn hãy gõ .co.uk thay vì .com như trước đây nhé!
11 tháng 10, 2012
Một ngày để nhớ
10/10/2012, một ngày lưu lại nhiều kỷ niệm với buổi tiệc chia tay cô bạn khả ái Ngọc An cùng ông xã - Anh Nguyên lên đường trở về Mỹ sau hơn nửa tháng trở về Quê hương thăm gia đình, người thân và bạn bè một thời cùng cắp sách dưới mái trường Thủ Khoa Nghĩa hơn ba mươi năm trước.
Bạn bè từ khắp nơi, người ở Long xuyên, Châu Phú về, người ở Châu phong, Chi Lăng qua, thậm chí có bạn ở tận trên Sài gòn cũng ham vui đổ đường về tham dự cuộc họp mặt
7h30 sáng: một chầu cafe 3 tiếng đồng hồ ở quán Hoa Nắng. Ban bè gặp nhau tán gẫu và bàn bạc thực đơn cho bữa tiệc.
Link xem hình và Vidéo
Mời các bạn click vào http://s391.photobucket.com/home/linhdangcd/index để xem hình ảnh hoạt động của nhóm
1 tháng 10, 2012
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)