Chia cho nhau nụ cười héo úa Sẻ cho nhau giọt lệ tươi vui Xoa cho nhau bao vết chém của đời Cùng nhau nhặt lại những gì rơi rụng...Cùng nhau nhặt lại những gì rơi… rụng…

27 tháng 12, 2013

CHÀO 2014




Năm 2013 đang chầm chậm trôi về những ngày cuối cùng…Thời điểm này, cảm xúc của mỗi người sẽ thật khác nhau. Có người ngẫm nghĩ lại một năm vừa qua với sự tiếc nuối, có người hào hứng bắt đầu lên kế hoạch cho năm mới, có người lại bâng khuâng những thứ cảm xúc khó tả…

Để hòa mình vào không khí năm mới sắp đến , TN xin gửi tới các bạn "ngày xưa" gần ,xa trên mọi miền đất nước ,các bạn đang sống & học tập ở nước ngoài lời chúc sức khỏe & NĂM MỚI AN KHANG THỊNH VƯỢNG ( HAPPY NEW YEAR 2014)
(nhando_AG)


20 tháng 12, 2013

“Cú sốc” từ một bức thư tình



(Dân trí)- Bài trích đăng bức thư tình của cố nhạc sỹ Trịnh Công Sơn gửi người yêu 16 tuổi từ gần 50 năm trước bỗng trở thành một trong những bài viết có số lượng truy cập “kỷ lục” tuần qua. Tại sao?
Những tưởng, giữa thời đại bùng nổ thông tin “sốc” như hiện nay, chẳng ai còn quan tâm đến một bức thư tình viết tay với ngôn ngữ văn chương, lãng mạn.
Báo chí nhiều năm nay mải mê “chạy đua” đưa tin sốc, giật gân. Ai cũng nghĩ, chỉ những tin “sốc”, “sex”, “cướp, giết, hiếp”… mới có “view”, mới có sức hút “kinh khủng” với độc giả. Người ta săn lùng tin sốc như một thói quen nghề nghiệp, và mặc định tin sốc cũng là thói quen đọc, là “nhu cầu”, là thị hiếu của độc giả.
Những tưởng, giữa thời đại của Facebook, của Smart-phone, khi tất thảy mọi việc (kể cả tình yêu) đều được “giải quyết” nhanh gọn, chóng vánh, sẽ chẳng còn mấy ai quan tâm đến thư tình.
Những tưởng, giữa cuộc sống vội vã, mê mải mưu sinh với “cơm áo gạo tiền” như hôm nay, khi giá xăng, giá vàng, giá điện còn “đảo điên”… sẽ chẳng mấy ai có thời gian để lưu tâm đến sự lãng mạn, nên thơ của những bức thư tình.
Những tưởng, chuyện viết thư tình và đọc thư tình đã là chuyện của “ngày xửa, ngày xưa”.


Bức thư Trịnh Công Sơn gửi người yêu Dao Ánh năm 1965 khi cô còn là một nữ sinh
Thế nhưng, bài viết “Bức thư tình tuyệt hay Trịnh Công Sơn gửi người yêu 16 tuổi” đăng trên trang Văn hóa của báo điện tử Dân trí ngày 26/11 đã trở thành bài viết có số lượng độc giả “kỷ lục”, là một trong những bài viết có sức thu hút lớn nhất trong tuần qua trên Dân trí.
Bài viết không chỉ thu hút đông đảo độc giả vào đọc bài, vào “Like”, còn thu hút đông đảo những ý kiến “comment” chia sẻ. Những dòng thư tình lãng mạn tưởng như đã bị lãng quên giữa cuộc sống đương đại thực dụng, vội vã, nay lại có thể làm sống dậy biết bao kỷ niệm, biết bao ký ức, biết bao cảm xúc trong lòng độc giả.
Đông đảo độc giả đã chia sẻ với chúng tôi, rằng cuộc sống “cơm áo gạo tiền” lâu nay đã khiến tâm hồn họ khô cằn, rằng những vội vã, chóng vánh của tin nhắn, Facebook, đã khiến họ chai sạn, nhưng khi đọc bức thư tình của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, biết bao người đàn ông đã nhớ lại ngày xưa khi còn viết thư tay tỏ tình với cô hàng xóm, hàng tuần sau mới dám gửi, và biết bao phụ nữ đã bày tỏ mong ước sẽ lại được nhận những bức thư tình lãng mạn, nhét vội sau khung cửa như thế…
Ở thời đại, khi “chụp ảnh tự sướng” trở thành một hiện tượng ngôn ngữ, “thư tình” đã trở thành từ khóa bị lãng quên. Khi những ký tự đã được “đồng bộ hóa” trên bàn phím điện thoại, bàn phím máy tính, những email, tin nhắn gửi cho nhau cũng được “khô cứng hóa”. Đọc, nhìn ngắm và suy nghĩ trước một bức thư tình viết tay cách đây gần 50 năm bỗng khiến biết bao nhiêu người lặng đi, xúc động.


Ngô Vũ Dao Ánh (lúc 16 tuổi) và Trịnh Công Sơn thời trẻ (Ảnh do gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cung cấp)

Trịnh Công Sơn sẽ không bao giờ có thể tưởng tượng được, bức thư tình ông gửi cô nữ sinh Dao Ánh, sau gần 50 năm, lại làm được những điều kỳ diệu như thế. Bức thư tình làm sống dậy biết bao cảm xúc, biết bao nhớ thương, biết bao suy nghĩ giữa một thời đại đã “số hóa” tất cả.
Những con chữ giản dị, văn phong tài hoa, cảm xúc đời thường, những yêu thương tha thiết, những rung động thuần khiết… của người nhạc sỹ vô tình đã chạm đến vùng ký ức xa lắc vốn bị bỏ hoang bấy lâu trong tâm hồn biết bao người.
Ai đó đặt câu hỏi, bài viết “Bức thư tình tuyệt hay Trịnh Công Sơn gửi người yêu 16 tuổi” sở dĩ được đông đảo độc giả đón nhận như vậy phải chăng vì độc giả đã bị báo chí “bỏ đói” quá lâu với những tin giật gân, gây sốc?
Hay, giữa cuộc sống bộn bề, bươn chải, trong tâm hồn mỗi chúng ta, đâu đó vẫn tràn đầy cảm xúc. Chỉ cần một “cú hích” từ một bức thư tình lãng mạn, từ những con chữ giàu sức gợi, tất cả ký ức, kỷ niệm, cảm xúc sẽ ùa về, bung trào nhung nhớ.
Bởi ai trong chúng ta cũng có (và muốn có) một nơi như thế, một thời như thế, cho mình.
B’lao, 23 tháng 9/ 1965
Ánh

Buổi trưa anh không ngủ được nên lang thang ra phố. Mưa nhỏ rồi lớn dần đuổi anh về đây. Anh đang ngồi ở câu lạc bộ sát bờ hồ. Bờ hồ bây giờ đã điêu tàn lắm. Người ta đã chặt bỏ những cây khô sống bao nhiêu năm nay trong hồ. Có một vài chỗ nước rút xuống chỉ còn bùn đen.

Buổi chiều gió thật lạnh. Anh đã mặc áo ấm suốt ngày ở đây.

Anh nhớ Ánh lắm mà ngôn ngữ thì quá chật hẹp, quá cũ kỹ không chuyên chở nổi sự nhớ nhung này. Nên anh đã nói đã nhắc mãi mỗi ngày mà vẫn chưa đỡ nhớ tí nào.

Ngồi ở đây nhìn ra từng ô cửa kính rất lớn anh mơ hồ thấy mình như lạc về một vùng đất nào mới sơ khai. Cả thành phố chỉ xanh rì những cây cối và từng khoảng đất đỏ.

Hiện giờ ở Tỉnh đang có một buổi văn nghệ sẽ tổ chức vào cuối tháng. Anh phụ trách chương trình này nên bây giờ vẫn còn được rỗi rảnh không làm việc gì cho đến cuối tháng.

Anh nhớ Ánh lạ lùng đó Ánh. Mà Ánh thì chỉ mong anh chóng đi xa, anh nghĩ thế. Mùa thu hầu như không có trên miền này. Ở đó lá đã bắt đầu vàng chưa Ánh.

Những bụi bờ dọc theo những con dốc đất đỏ ở đây anh vừa đi qua ban sáng và thấy lá của hoa mặt trời xanh um. Anh ngắt gửi về Ánh một ngọn. Hoa thì vẫn chưa nở. Có lẽ đợi hôm nào có mặt trời thì hoa mới bắt đầu hiện diện và cũng là mùa mà anh đã gọi là mùa sinh nhật của hướng dương.

Anh đang nhớ thầm về những buổi chiều thứ năm ở đó. Chỉ mới có vài ngày mà tưởng chừng như ngàn đời qua đi trên anh. Anh chợt nghĩ rằng cuộc đời buồn bã như thế này sao chúng mình không tha thiết với nhau hơn.

Những ai chưa bao giờ đi, chưa bao giờ sống qua nhiều nơi, sống qua những ngày mưa ngày nắng trên bao nhiêu vùng đất khác nhau, chưa bao giờ nhìn sâu vào bên sau của con người thì hẳn mới còn đua đòi vào những hời hợt nhạt nhẽo của đời sống được.

Buổi trưa trời âm u và hơi lạnh.

Anh vẫn không thể nào không thấy sự lạc lõng của mình nơi đây.

Ở trường Đồng Khánh giờ này chắc Ánh đang mài miệt với những bài vở mới. Sân trường đã có những cây hoa vàng, tím mọc nhoi lên trên từng bãi cỏ xanh. Đúng không. E cũng phải mất đến hằng mấy tháng anh mới tạm ổn mình được vào với thành phố này lại.

Bây giờ anh không còn làm người gác hải đăng, Ánh cũng thôi làm người mang lửa. Chúng mình làm sao níu cho được tay nhau trong suốt mùa Đông này?

Cơn mưa như thác đổ ngoài trời. Đồi trà bây giờ mù mịt không còn thấy gì.

Anh đang có Ánh – tuổi – nhỏ trước mặt trong chiếc hộp nhỏ anh mang theo đó.

Mưa rất buồn. Như một điệp khúc dai dẳng trong mấy tháng mùa Đông này.

Ánh ơi

Nếu còn sự yêu thương và nhớ nhung nào trong Ánh thì hãy gửi làm quà cho anh để anh coi thường những tháng ngày ẩm mục nơi đây

Nhớ vô ngần

Thân yêu, yêu dấu

Trịnh Công Sơn (ký tên)

16 tháng 12, 2013

Sự thật những tấm HCV Olympic Toán quốc tế của Việt Nam qua lời kể nguyên Phó Chủ tịch FPT

Phải thừa nhận rằng nền giáo dục Mỹ tốt hơn Việt Nam. Chúng ta thường gửi con đi Mỹ học, không thấy người Mỹ nào xin học ở Việt Nam.

Sự thật những tấm HCV Olympic Toán quốc tế của Việt Nam qua lời kể nguyên Phó Chủ tịch FPT
Sự phát triển của một người phụ thuộc hai yếu tố: di truyền và môi trường. Do các yếu tố di truyền nên người Việt Nam khó có thể ganh đua với người Mỹ trong các môn sức mạnh cơ bắp như chạy, nhảy... Nhưng với các môn thuần túy đầu óc và không cần đầu tư nhiều tiền thì có thể ngang ngửa như cờ, toán...
Về lý thuyết thì người Việt Nam cũng có số tế bào não như các dân tộc khác. Kiến thức cơ bản của nhân loại đã tích lũy được qua hàng triệu năm tiến hóa thì chúng ta có điều kiện tiếp cận như Mỹ nhờ có Internet.
Tóm lại nếu chỉ thi bằng bút chì và bàn phím, không thi vật tay thì Việt Nam có điều kiện ngang ngửa với Mỹ.
Còn môi trường, có lẽ cái này Việt Nam luôn thiếu.
Một ví dụ điển hình là việc Việt Nam tham gia thi Toán quốc tế từ năm 1974. Chúng ta tự hào là một nước bị chiến tranh tàn phá 20 năm mà vẫn đạt được huy chương này nọ, chỉ thua Liên Xô, Đông Đức và sau này thua Mỹ...
Sự thật những tấm HCV Olympic Toán quốc tế của Việt Nam qua lời kể nguyên Phó Chủ tịch FPT (1)
Thực ra là thế nào?
Tôi tham dự đội tuyển Việt Nam năm 1975. Đoàn nước ta có 8 học sinh (số lượng tối đa cho một đoàn) giành được một huy chương Bạc, 3 huy chương Đồng và đứng thứ 10.
Mỹ cũng tham gia lần thứ hai, có 8 học sinh giành được 3 huy chương Vàng, một huy chương Bạc, 3 huy chương Đồng và chỉ đứng sau Hungary và Đông Đức.
Tôi nhờ thầy Phan Đức Chính, Trưởng đoàn Việt Nam hồi đó, hỏi xem Mỹ chọn và dạy học sinh đi thi thế nào?
Mỹ làm thế này: Họ thông báo là thế giới tổ chức International Math Olympics. Mỗi nước được cử tối đa 8 học sinh phổ thông, tuổi dưới 19, cùng một Trưởng đoàn tham gia cung cấp bài thi (giới hạn trong kiến thức phổ thông) để hội đồng chọn ra 6 bài cho học sinh làm, và cùng chấm điểm tất cả các bài thi kể cả của đoàn mình. Chi phí đi lại nước dự thi chịu. Chi phí ăn ở trong quá trình thi nước đăng cai trả.
Mỹ sẽ cử đoàn đi, chọn các em dưới 19 tuổi, chưa học đại học. Nếu số lượng đăng ký trên 8 thì tổ chức thi loại, dưới 8 thì ai đăng ký đều được đi. Đoàn tự thu xếp kinh phí (gia đình cho tiền, xin tài trợ của tổ chức, cá nhân). Chính phủ Mỹ không cho tiền, cũng chẳng dạy dỗ gì cả. Mặc dù là trò chơi vớ vẩn nhưng Mỹ luôn đứng trong Top 3.
Việt Nam và các nước XHCN làm thế này: Từ cấp 2 (lớp 5-7) đã phải thi đấu vào lớp chuyên của trường, tỉnh/thành phố. Đến cấp 3 (lớp 8-10) lại thi đấu vào trường chuyên của Bộ Đại học, của tỉnh. Hình thành một loại "gà nòi" chỉ để thi đấu: Chuyên toán của Bộ Đại học có ĐH Tổng hợp, Sư phạm Hà Nội, Sư phạm Vinh. Chuyên toán của các tỉnh như Chu Văn An (Hà Nội), Lam Sơn (Thanh Hóa), Lê Hồng Phong (Nam Định)...
Rồi "bọn gà" này lại qua hàng chục vòng đấu để chọn ra 14 "con" vào đội tuyển toán quốc gia. Từ đó, sau 90 ngày khổ luyện qua 45 bài kiểm tra lấy ra 8 "con gà" để đi thi. Tiền tuy không nhiều nhưng do ngân sách Nhà nước chi trả cả.
Trước khi ra nước ngoài, Bộ Tài chính cho mỗi thành viên trong đoàn mượn một bộ comple, 2 áo sơ mi, một đôi giày, về thì phải trả, không có tất.
Thủ tướng Phạm Văn Đồng mời cả đoàn vào dinh đãi một bữa phở úy lạo trước khi lên đường và hỏi:
- Các cháu có nguyện vọng gì?
Đáng lẽ phải nói là quyết tâm mang vinh quang về cho tổ quốc Việt Nam anh hùng thì tôi lại bảo:
- Chúng cháu được cho mượn giày nhưng không có tất, đau chân lắm, cháu sẽ đi dép lê.
Dưới gầm bàn, thầy Chính đá tôi một phát khá đau.
Thủ tướng chảy nước mắt nói với ông Tạ Quang Bửu, khi đó là Bộ trưởng Bộ Đại học:
- Nước nhà vừa trải qua chiến tranh, còn nghèo lắm, nhưng một đôi tất sao không lo được cho các cháu?
Khi đó chỉ có đúng một loại tất của Trung Quốc bày bán ở cửa hàng Bách hóa Bờ Hồ giá 7 đồng một đôi.
Ngay lập tức, một núi công văn, điện thoại giữa Bộ Đại học, Bộ Tài chính và Văn phòng Chính phủ được trao đổi và kết quả đến chiều có văn bản cấp cho mỗi cháu 3 đồng để mua tất. 4 đồng thiếu thì bảo bố mẹ cho, bố mẹ không có thì bác Bửu bù. Có lẽ đấy là vụ PPP đầu tiên của Việt Nam.
Mặc dù thuần túy chuyên môn nhưng ngay từ năm 1975 đã có vô số yếu tố phi chuyên môn len vào quá trình lựa chọn:
- Phải có đủ thành phần nam, nữ.
- Phải cân đối số lượng giữa các trung tâm "gà" (hồi đó là ĐH Tổng hợp và ĐH Sư phạm).
- Các thầy từ lò Sư phạm rỉ tai cho "gà" của trung tâm mình đáp án trước các vòng kiểm tra.
- Thêm cả yếu tố đạo đức, lý lịch, thành phần giai cấp nữa. Trong đội tuyển năm 1975 có một bạn rất giỏi bị loại vì đã tố cáo các thầy Sư phạm "gà" bài cho học sinh trường mình. Lý do: "Thiếu ý thức kỷ luật, có vấn đề về đạo đức". Có lẽ cũng là vụ "Đồi Ngô" đầu tiên của ngành giáo dục Việt Nam.
Duy nhất cậu này trong số mấy ngàn "con gà" khóa 1975 cho đến bây giờ còn làm toán và sống bằng nghề giảng dạy toán cao cấp tại một trường đại học danh tiếng của Mỹ.
Theo tôi biết thì hàng chục ngàn "con gà" đó sau này không làm nên cơm cháo gì trừ Ngô Bảo Châu đã làm rạng danh nền toán học Pháp và đang cống hiến cho một trường đại học ở Mỹ.
Thế khác nhau chỗ nào?
Khác nhau ở chỗ Chính phủ Mỹ dứt khoát không dùng tiền ngân sách tài trợ cho Khoa học, Văn hóa, Thể thao.
Nhà nghiên cứu khoa học, nhà văn, diễn viên, cầu thủ tự sống bằng tiền nghiên cứu theo hợp đồng với cơ quan Chính phủ hay với các công ty, giảng dạy, bán sách, bán phim, thi đấu. Thích thì tự hội họp với nhau mà trao giải Field, Oscar... phong nhau làm Giáo sư, Viện sĩ...
Còn Việt Nam thì suốt ngày cãi nhau về chuyện Nhà giáo Nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú và xin Nhà nước tài trợ từ hát xẩm đến cầu lông.

6 tháng 12, 2013

Một Góc Nhìn Khác Về Nợ Xấu




Phóng viên (PV): Thưa ông, đối với người kinh doanh, có bao nhiêu điều quan trọng?
Doanh nhân:Theo tôi thì có hai thôi: tìm ra thị trường và tìm ra nguồn vốn
PV: Thị trường đôi lúc là nhân tố khách quan. Còn đồng vốn không phải như vậy, đúng không ạ?
Doanh nhân: Đúng. Vốn phải tự có. Hoặc thông thường nhất phải đi vay.
PV: Vay ai?
Doanh nhân: Bất cứ ai. Nhưng trên thực tế, chủ yếu là vay ngân hàng.
PV: A, ngân hàng. Có phải nơi mà dư luận luôn nói là đang ôm nhiều nợ xấu đó không?
Doanh nhân: Xin nhà báo định nghĩa lại cho tôi biết “nợ xấu” là gì?
PV: Là nợ không có khả năng thu hồi. Nói nôm na là không đòi được.
Doanh nhân: Thế hiện nay các ngân hàng ôm nợ xấu nhiều không?
PV: Ô, ông không biết à? Vô cùng nhiều, nhiều đến mức bao nhiêu rất khó thống kê. Nguy cấp lắm.
Doanh nhân: Tôi nghĩ khác, nhà báo ạ. Tôi hoàn toàn cho như vậy là “nợ đẹp”.
PV: Nợ đẹp?
Doanh nhân: Phải. Vì với tư cách doanh nhân, tôi biết lúc mắc nợ thì lo lắng vô cùng, mất ăn mất ngủ, bị ám ảnh, và khả năng mất tài sản vào bất cứ lúc nào. Nhưng mất ăn mất ngủ tôi chưa thấy, chứ cho tới bây giờ nhìn ông ngân hàng nào cũng phây phây, chưa thấy ai mất gì, cũng hầu như chưa thấy ai bị sao. Nợ như vậy gọi nợ đẹp chứ còn gì nữa.
PV: Ừ nhỉ.
Doanh nhân: Nợ mà không thống kê rõ số nợ, nợ mà không biết chính xác ai nợ bao nhiêu và ai là người ký quyết định cuối cùng cho vay, nợ mà không đòi được cũng chả chết thì xấu làm sao được.
PV: À há.
Doanh nhân:Nếu nhà báo cho tôi vay một triệu đồng, tôi không trả nhà báo vẫn bình an, vẫn có cơm ăn áo mặc, vẫn giữ nguyên chức vụ và vẫn hứa chứ đâu phải trả tiền. Thì nhà báo thấy sự nợ như thế có nhẹ nhõm không?
PV: Nhẹ nhõm vô cùng.
Doanh nhân: Ngược lại, nếu tôi cho vay mà tôi không đòi cũng chả làm sao, tài sản cá nhân của tôi không hề suy chuyển; địa vị, danh tiếng của tôi vẫn oai hùng thì món nợ đó đâu làm tôi đau đớn lắm.
PV: Đúng vậy.
Doanh nhân: Tóm lại, rất kỳ lạ, tôi có cảm giác nợ xấu đang biến thành nợ đẹp với cả người cho vay lẫn người đi vay, nghĩa là cả hai cứ ì ra mà chả làm sao cả.
PV: Không phải như vậy đâu.
Doanh nhân: Tôi chưa biết bên trong các vị xử lý nhau như thế nào, nhưng bên ngoài nhìn vào chỉ thấy nợ xấu là một kẻ vô danh, không hình ảnh, không mặt mũi, và con số thì khá lờ mờ. Còn trong cuộc sống, nếu tôi cho ai vay tiền, hoặc tôi đi vay của cá nhân nào đó thì vay bao nhiêu, bao giờ trả hoặc không trả, sẽ ra sao. Chắc chắn họ tính chính xác tới từng xu.
Cho nên nói nợ xấu đang có khả năng biến thành nợ đẹp do chưa thấy ai chết cũng không phải không có lý. Hoặc ít nhất cũng có thể gọi đó là nợ êm dịu, nợ thanh thản hoặc nợ bình an. Không có chuyện một sống một chết giữa chủ nợ và con nợ.
Nợ kiểu như thế thì nói thật, có khi tôi muốn… vay thêm. Nợ kiểu đó, thì giữa chủ nợ và con nợ sẽ còn tình thương mãi mãi.

 Lê Thị Liên Hoan (An ninh thế giới cuối tháng) 17/11/2013
 



29 tháng 11, 2013

MỪNG LỄ TẠ ƠN (HAPPY THANKSGIVING)




Chính tấm thân của chúng ta cũng là một sự vay mượn, tâm thức của chúng ta là một dòng luân lưu của ý thức từ nhiều người khác nhau, của ngoại cảnh và nội giới.
Hàng năm người Hoa Kỳ dành ngày Thứ Năm trong tuần lễ cuối của tháng Mười Một để cử hành lễ Tạ Ơn.  Ngày lễ Tạ Ơn cũng còn được gọi là “Ngày Gà Tây” và theo thống kê cho biết mỗi năm có hơn 270 triệu con gà tây bị giết làm thức ăn, trong đó có 78 triệu con lên bàn ăn vào ngày lễ Tạ Ơn.  Trong dịp lễ này, ngoài món gà tây nướng, còn có các món khoai lang, bắp ngô và bí đỏ.

Theo tài liệu lịch sử Hoa Kỳ, những người tiền phong đến phần đất mới này, đã phải chịu nhiều gian nan cực nhọc, do khí hậu khắc nghiệt, bệnh hoạn và đất hoang chưa bao giờ khai phá.  Với sự giúp đỡ chỉ bảo kinh nghiệm trồng hoa mầu của thổ dân trong vùng, họ đã khắc phục được mọi khó khăn.  Và để tỏ lòng biết ơn đất trời và những người bạn mới, họ đã mời thổ dân trong vùng tham dự bữa ăn với những món ăn do chính họ cầy cấy, như khoai lang, bắp ngô, bí đỏ và gà rừng vào một ngày cuối tháng Mười Một, và từ đó có tục lệ này.

Khởi từ câu chuyện chiếc tàu Mayflower. Tháng 09 năm 1620, một nhóm gồm 102 người, trong đó có 44 người thuộc giáo phái Separatist, tức nhóm ly khai Giáo Hội Anh Quốc Giáo, muốn tìm đất sống mới và có quyền tự do tín ngưỡng, đã lên chiếc tàu buồm Mayflower rời cảng Plymouth ở Anh, vượt Đại Tây Dương sang Bắc Mỹ. Sau cuộc hành trình vất vả dài 65 ngày, tàu Mayflower không đến được nơi dự tính là vùng Virginia mà bị gió bão trôi giạt lên phía Bắc, đến một vùng ngày nay thuộc bang Massachusetts vào tháng 11 năm 1620.

Nhóm di dân này được gọi là Pilgrims, đã trở thành những người đầu tiên định cư trên đất Mỹ, lập ra thành phố New Plymouth ngày nay. Do không chịu nổi đói và rét của mùa Đông lạnh giá đầu tiên nơi vùng đất mới, phân nửa những người di dân đã chết. Tới mùa Xuân năm sau, 1621 họ mới liên lạc được với thổ dân da đỏ Wampanoag và được những người thổ dân này giúp đỡ trong vấn đề trồng hoa mầu, cách bắt cá và săn thú rừng và họ đã gặt hái được kết qủa.  Sau đó, những người di dân sống sót quyết định làm lễ tạ ơn Trời Đất và tạ ơn những người bản xứ da đỏ đã giúp đỡ họ vì họ tin rằng nếu không có những người dân tốt bụng này thì họ không thể tồn tại được qua  năm đó. Và đây là sự kiện khởi đầu cho truyền thống Thanksgiving của Hoa Kỳ và truyền thống này còn mãi đến ngày nay.

Hơn 100 năm sau, với mục đích tạo dựng tinh thần đoàn kết giữa các người di dân chống lại ngoại xâm, tháng 10 năm 1789, tổng thống Washington đã công bố ngày lễ Tạ Ơn toàn quốc đầu tiên vào ngày 26 tháng 11. Điều nầy xác định được tính chất đặc thù của ngày lễ Tạ Ơn trong khi dân Mỹ đang phát động cuộc cách mạng để giải phóng dân tộc ra khỏi sự đô hộ của Anh quốc.
Vào những năm 1830, khi tình hình nước Mỹ bắt đầu bị chia rẽ, và các tiểu bang Miền Nam đòi ly khai, tổng thống Lincoln tuyên bố chọn ngày Thứ Năm của tuần lễ cuối tháng 11 năm 1863, làm ngày lễ Tạ Ơn, nhằm tạo nên tình đoàn kết dân tộc trong lúc cuộc nội chiến Nam-Bắc nước Mỹ đang vào thời kỳ tương tàn và ác liệt nhất. Ông nhận thức được tầm quan trọng của ngày lễ Tạ Ơn, và cũng muốn nhắc nhở dân Mỹ nhớ đến công ơn của những người di dân đầu tiên đã xây dựng nên nước Mỹ.

Không dựa theo một tôn giáo nào, lễ Tạ Ơn trải qua gần 400 năm đã trở  thành ngày hội của cả quốc gia, cảm ơn trời đất cho mọi người đủ cơm áo mặc.

Truyền thống lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ rất đẹp, không mang tính chất chính trị, không dành riêng cho một tôn giáo hay để tưởng niệm một cá nhân nào. Nó là ngày lễ cho tất cả các dân tộc có mặt trên nước Mỹ, vốn là những người di dân, để họ bày tỏ lòng biết ơn của họ đối với đất nước, dân tộc, văn hoá và nền tự do dân chủ của Hoa Kỳ. Ngày lễ Tạ Ơn giúp người di dân có cơ hội nói lên lòng biết ơn đến các bậc tiền nhân và những sự hy sinh của những người có công xây dựng đất nước.  Ý nghĩa ngày lễ này gắn liền với lòng biết ơn của con người, nên rất đáng được những người di cư đến sau, trân quý và áp dụng.

Trong giai đoạn đầu tiên định cư nơi xứ sở này, những người Việt di cư đến sau cũng gặp vô vàn khó khăn, nhưng cuối cùng dân tộc Hoa Kỳ và đất nước này, đã giúp họ vượt qua mọi trở ngại và họ đã thành công, không có mùa màng nhưng được công ăn việc làm tốt, buôn bán thịnh vượng phát đạt, từ tiểu thương bán lẻ, từ làm móng tay, làm tóc đến buôn bán nhà cửa và thị trường chứng khoán.  Vì thế lễ Tạ Ơn là nét đẹp văn hóa mới đối với người Việt tại Hoa Kỳ.

Với đạo Phật, lễ Tạ Ơn cũng không ngoài tinh thần lễ Tứ Ân mà người con Phật phải luôn luôn nhớ tưởng và báo đền. Theo kinh Tâm Địa Quán, bốn ơn đó là: Ơn cha mẹ, Ơn chúng sinh, Ơn quốc gia-xã hội, và Ơn Tam Bảo.

Trong bốn ơn thì Ơn Cha Mẹ là ơn đứng hàng đầu, lớn lao sâu rộng tựa như trời biển.  Chúng ta ra đời, lớn khôn, trưởng thành rồi góp mặt với xã hội là do công ơn cha mẹ sinh thành và nuôi dưỡng.  Từ lúc bé thơ cho đến khi thành người, cha mẹ đã tốn không biết bao nhiêu là công sức, khổ nhọc để cho ta nên người. Cha mẹ đã đổ không biết bao nhiêu mồ hôi và nước mắt trong cuộc sống để cho ta hưởng trọn được những gì tốt đẹp nhất trong đời. Lòng hy sinh của cha mẹ dành cho con không bờ bến.  Cho nên, bổn phận làm con không những phải nhớ ơn mà phải biết báo đền công ơn dưỡng dục và sanh thành của cha mẹ.

Thế giới chúng ta đang sống là một sự kết hợp hài hòa giữa cái này và cái khác.  Thiếu cỏ cây, đất nước, ánh sáng mặt trời, chúng ta khó có thể tồn tại, hay nếu sống được thì chúng ta cũng sẽ sống trong ốm đau bệnh tật và đời sống sẽ tẻ nhạt khi thiếu vắng tiếng chim hót lúc ban mai, thiếu hoa nở khi trời vào xuân, thiếu tiếng nước chảy róc rách của mạch nước từ hang đá, thiếu tiếng ào ạt liên tục của dòng thác tạo thành bản nhạc rừng vĩ đại.  Và con người sẽ sống cô đơn khi thiếu đồng loại của mình, sẽ héo mòn mỗi ngày, rồi sẽ trở thành trơ trọi, mất sức sống.

Thế giới chúng ta đang sống là một thế giới của sự tương tức tương nhập, trùng trùng duyên khởi, thế giới của “cái này có thì cái kia có, và cái này không thì cái kia cũng không”. Thế giới chúng ta đang sống là thế giới của nợ nần nhau, của trả vay, vay trả nhiều đời. Chính tấm thân của chúng ta cũng là một sự vay mượn, tâm thức của chúng ta là một dòng luân lưu của ý thức từ nhiều người khác nhau, của ngoại cảnh và nội giới. Suy nghĩ và hiểu được như vậy, chúng ta mới biết được rằng dù hiện tại, chúng ta và những sinh thể khác không biết nhau, nhưng trong quá khứ có thể đã có nhiều liên hệ mật thiết với nhau. Hiểu được như thế thì chúng ta không thể không nghĩ đến nỗi thống khổ của người khác, hay nhân rộng ra là những sinh thể khác.

Chúng ta cần phải cân nhắc trong ý nghĩ và hành động để không làm hại người, hại vật và hại mình là chúng ta đã biết được cách tri ân và báo ân giữa người và người, giữa người và môi trường xung quanh, để tạo nên một thế giới loài người sống có hòa ái.  Phát tâm như vậy, chính là suối nguồn của tri ơn và báo ơn đến với chúng sanh.

Con người sinh ra và sống ở đời là đã chịu rất nhiều những ơn huệ của nhau.  Ơn cha mẹ, ơn chúng sinh, ơn mưa, ơn nắng, ơn cỏ cây hoa lá và ơn sơn hà xã tắc (quốc gia xã hội), ơn những người đã dày công lập quốc và mở mang bờ cõi, ơn công lao những lòng dũng cảm giữ gìn an ninh và những nhà khoa học, miệt mài nghiên cứu tìm tòi để thăng tiến cuộc sống tiện ích cho mọi người.  Chúng ta nhớ ơn chúng sinh, nhớ ơn quốc gia xã hội, trong đó bao gồm ơn dân tộc và quốc gia đã cưu mang chúng ta, đã cho chúng ta thừa hưởng những di sản tinh thần quý báu như dân chủ và tự do, cùng là những tiện nghi công cộng vật chất.  Khi ăn hột bắp hay hạt gạo chúng ta còn nhớ đến người cấy trồng huống hồ khi chúng ta lái xe an toàn trên xa lộ, bay trên không trung an lành nhanh chóng, hay đi tầu thuyền trên các hải lộ, mà không nhớ đến tiền thuế đóng góp của những thế hệ trước chúng ta đã tạo dựng nên quốc gia này.  Mỗi người chúng ta dù muốn dù không cũng cần đến người khác, tất cả đều có liên hệ hỗ tương với nhau, nên chúng ta cần sống với tấm lòng biết ơn lẫn nhau.

Và cuối cùng trong bốn ơn là Ơn Tam Bảo.  Ơn Phật, ơn Pháp và ơn Tăng đã soi đường dẫn dắt chúng ta vượt thoát phiền não và ra khỏi sinh tử luân hồi. Quả thật không có nỗi khổ nào lớn lao bằng nỗi khổ cứ thăng trầm ngụp lặn mãi trong luân hồi sinh tử.  Ðức Phật đã thấy như thế và Ngài đã tìm ra con đường giải thoát để hướng dẫn chúng ta cũng được giải thoát như Ngài.  Ngài đã từ bi phương tiện giáo hóa, mở nhiều cánh cửa để chúng ta gieo trồng thiện căn, phúc đức.  Sở dĩ, hôm nay chúng ta gặp được Phật pháp, để biết được đâu là thiện căn đã gieo trồng từ trước và đâu là ác nghiệp, nếu gây ra sẽ nhận lãnh quả báo xấu trong tương lai. Tất cả những hiểu biết ấy của chúng ta hôm nay là từ Phật, Pháp và Tăng truyền dạy lại. Đó là ơn Tam Bảo mà chúng ta phải biết và phải đền đáp.

Ngày lễ Tạ Ơn đã trở thành một ngày lễ được dân Mỹ tôn trọng nhiều nhất, bất kể tôn giáo và nguồn gốc dân tộc. Qua đó, người ta xem sự biết cảm ơn lòng tốt của người xung quanh là điều không thể thiếu vắng trong sinh hoạt xã hội. Với cái nhìn sâu rộng, người ta muốn mang trọn vẹn ý nghĩa cảm tạ vào trong mùa Thanksgiving. Nó không đơn giản chỉ là một ngày quốc lễ, mà là một phần của nền văn hoá Hoa Kỳ.

Tác giả: Tâm Diệu (Web site của Đai Học Hoa Sen) Thanksgiving 2013
Đầu trang
Giữa trang
Cuối trang