Về việc xác lập các vùng biển phụ cận của các đảo đá
Tháng 11 năm 2008, Nhật Bản nộp đơn đăng ký thềm lục địa mở rộng cho vùng biển phía Nam, trong đó có bao gồm cả đảo đá Okinotori, một bãi đá ngầm không người ở, nằm ở phía nam tận cùng lãnh thổ Nhật Bản.
Đảo đá này được quy hoạch vào quần đảo Ogasawara (thuộc Tokyo), là quần đảo hình thành bởi nhiều rặng san hô có diện tích 7,8 km2. Trung Quốc đã chính thức công nhận đảo bãi đá Okinotori là thuộc lãnh thổ Nhật Bản.
Ngày 6 tháng 2 năm 2009, Phái đoàn thường trực của Trung Quốc tại Liên hợp quốc đã gửi công hàm phản đối hồ sơ ranh giới ngoài thềm lục địa của Nhật Bản gửi Uỷ ban Ranh giới thềm lục địa ngày 12 tháng 11 năm 2008 về việc Nhật Bản đã lấy đảo đá Okinotori làm điểm cơ sở để mở rộng thềm lục địa ở ba khu vực ngoài 200 hải lý tại biển Hoa Đông. Lý do mà Trung Quốc đưa ra là bãi đá ngầm Okinotori không phải là nơi cư dân có thể sinh sống, cũng không thể duy trì các sinh hoạt kinh tế. Tại cuộc họp lần thứ 19 của các nước thành viên Công ước luật biển 1982, đoàn đại biểu Trung Quốc khẳng định lại lập trường theo điều 121 khoản 3 của Công ước luật biển 1982, đó là, các đảo, đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc không có đời sống kinh tế riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.
Thế nhưng tại Biển Đông, Trung Quốc lại có lập trường khác hẳn khi yêu sách các vùng biển phụ cận của các đảo đá thuộc hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam mà Trung Quốc đã đánh chiếm một cách bất hợp pháp. Vùng biển phụ cận mà Trung Quốc đòi hỏi trùm lên cả các vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các quốc gia láng giềng. Do các đảo, đá ở hai quần đảo này có diện tích nhỏ, không đủ điều kiện cho con người sinh sống và không có đời sống kinh tế riêng nên yêu sách vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa cho các đảo đá này rõ ràng là không phù hợp với điều 121 của Công ước luật biển 1982.
Yêu sách “đường lưỡi bò”
Trong khi yêu cầu các nước khác phải tôn trọng luật biển quốc tế và tôn trọng những quyền và lợi ích trên biển của mình, Trung Quốc tự giành lấy cái quyền vi phạm luật biển quốc tế hoặc vận dụng luật biển quốc tế theo cách có lợi cho lợi ích ích kỷ của mình. Ngày 7 tháng 5 năm 2009, Trung Quốc ngang nhiên đơn phương đưa yêu sách đường đứt khúc chín đoạn ra trước Liên hợp quốc. Với con đường này, Trung Quốc ngang ngược yêu sách một vùng biển chiếm đến 80% diện tích biển Đông, thể hiện rõ tham vọng chiếm đoạt vùng biển và tài nguyên trong các vùng biển của các nước láng giềng.
Việc Trung Quốc đưa ra yêu sách đường lưỡi bò rõ ràng là bất chấp những tiêu chuẩn quốc tế về việc hình thành yêu sách ranh giới trên biển và những quy định của Công ước luật biển 1982 về việc xác lập các vùng biển quốc gia, đơn phương đặt ra chuẩn mực luật pháp, không đếm xỉa gì đến lợi ích của các quốc gia láng giềng và lợi ích của các quốc gia khác trong khu vực và thế giới.
Đối xử với các ngư dân bị bắt
Tháng 9 năm 2010, khi một tàu cá của Trung Quốc bị tàu tuần tra của Nhật Bản bắt giữ ở vùng biển ngoài khơi Nhật Bản nơi mà Trung Quốc coi là một khu vực biển tranh chấp, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành những biện pháp ngoại giao và chính trị quyết liệt, khuấy động tinh thần dân tộc sâu sắc trong dư luận Trung Quốc để phản đối Nhật Bản, gây nên một bầu không khí hết sức căng thẳng trong khu vực.
Trong khi đó, tại biển Đông Trung Quốc có hành động và thái độ hoàn toàn khác. Trong hơn chục năm qua, Trung Quốc ngang nhiên đơn phương cấm đánh bắt cá từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm trong các vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước láng giềng. Mấy năm gần đây, Trung Quốc còn đưa tàu ngư chính xuống vùng biển thuộc phạm vi quần đảoTrường Sa, làm cho tình hình trong khu vực biển này ngày càng phức tạp và căng thẳng, đồng thời bắt bớ và đối xử vô nhân đạo đối với những ngư dân Việt Nam tiến hành đánh bắt cá tại vùng biển của Việt Nam trong phạm vi khu vực quần đảo Hoàng Sa. Riêng năm 2009, đã có 33 tàu cá và 433 ngư dân Việt Nam bị các lực lượng Trung Quốc bắt giữ. Năm 2010, đã có 21 tàu cá và 173 ngư dân Việt Nam bị bắt giữ.
Vụ 9 ngư dân Quảng Ngãi (Việt Nam) bị Trung Quốc bắt giữ trong tháng 9 năm 2010 là dịp để báo chí so sánh phê phán tiêu chuẩn kép áp dụng khác nhau cho ngư dân Trung Quốc bị tàu tuần tra Nhật Bản bắt trong vùng biển Senkaku và cho ngư dân Việt Nam bị bắt giữ tại vùng biển Hoàng Sa.
Về việc thực thi các cam kết khu vực
Năm 2002, Trung Quốc đã ký với các nước ASEAN bản Tuyên bố về các hành vi ứng xử ở biển Đông trong đó các nước ký kết cam kết cùng nhau giữ gìn hoà bình và ổn định trong khu vực, không sử dụng vũ lực và đe doạ sử dụng vũ lực, không tiến hành những hoạt động làm phức tạp thêm tình hình. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN - Trung Quốc lần thứ 13 tại Hà Nội ngày 29 tháng 10 năm 2010, Trung Quốc và các nước ASEAN đã ghi nhận gần như toàn bộ các nội dung trên như : nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường đối thoại và hợp tác vì hoà bình, ổn định và phát triển ở khu vực; cam kết tuân thủ và thực hiện hiệu quả Tuyên bố về cách ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông, thúc đẩy hợp tác tiến tới thông qua Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông; cam kết giải quyết hoà bình các tranh chấp trên cơ sở luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước luật biển của Liên hợp quốc; cũng như đẩy mạnh hợp tác xử lý các vấn đề cùng quan tâm, nhất là các thách thức an ninh phi truyền thống mà khu vực đang phải đối mặt. Chỉ mấy ngày sau Hội nghị cấp cao ASEAN, báo chí Trung Quốc còn trích lời người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, kêu gọi các bên liên quan tránh làm xấu đi tình hình ở Biển Đông, tránh tạo ra căng thẳng và phát sinh cho giải pháp cuối cùng của vấn đề, và rằng việc này có lợi cho mọi nước liên quan, trong đó có Trung Quốc.
Trong khi hô hào các nước phải tuân thủ các cam kết khu vực, Trung Quốc liên tục có những hành động vi phạm cam kết của mình như: tăng cường sức mạnh quân sự, nhất là lực lượng hải quân liên tục tiến hành các cuộc tập trận tại các khu vực biển có tranh chấp, thậm chí còn tiến hành các cuộc tập trận tập dượt để đánh chiếm các đảo ở Biển Đông; đưa cả ba hạm đội Bắc Hải, Đông Hải, Nam Hải vào Biển Đông giễu võ giương oai, uy hiếp các nước láng giềng nhỏ khác trong khu vực; đưa hai tàu tuần tra ngư nghiệp lớn đến quần đảo Trường Sa để thực hiện cái gọi là “bảo vệ các tàu đánh cá của Trung Quốc”; đơn phương áp đặt lệnh cấm đánh cá thường diễn ra giữa tháng 5 và tháng 8 trong vùng biển Đông trong hơn thập kỷ vừa qua; ngăn cản các hoạt động dầu khí của Philippin và của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của các nước này và công bố dự án 29 tỷ đô-la của Công ty Dầu khí hải dương Trung Quốc nhằm khai thác dầu ở Biển Đông.
Việc áp dụng tiêu chuẩn kép kiểu Trung Quốc thực chất là chính sách bá quyền nước lớn, tự giành cho mình cái quyền được đặt ra những chuẩn mực cho hành vi của các quốc gia khác, bất chấp những tiêu chuẩn, nguyên tắc của luật pháp quốc tế và lợi ích hợp pháp của các quốc gia khác. Chính vì vậy, “tiêu chuẩn kép” của Trung Quốc không thể được các quốc gia trong và ngoài khu vực Đông Nam Á chấp nhận. Để trở thành một thành viên đáng tin cậy của cộng đồng quốc tế, Trung Quốc cần chấm dứt việc áp dụng tiêu chuẩn kép trong quan hệ quốc tế; đồng thời nghiêm chỉnh tuân thủ luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước luật biển 1982.
Nguyễn Nghiêm
0 nhận xét:
Cảm nghĩ của bạn
Cảm ơn bạn đã xem bài đăng! Xin cho biết cảm nghĩ của bạn!