Chủ nhật, ngày 19 tháng sáu năm 2011
Phần 1
Mùa thi tốt nghiệp PTTH những năm
gần đây tỷ lệ học sinh tốt nghiệp được đặt ra như là chất lượng của nền giáo dục
hơn là thành quả của học trò. Xin giới thiệu bài biên khảo của tác giả Nguyễn
Văn Lục về chế độ thi cử trước 1975.
----------------------------------------------------------------------------
----------------------------------------------------------------------------
Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống
lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái
tinh thần của truyền thống ấy.
Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ
Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ. Việc thi
cử tính ra cũng được ngàn năm. Cái truyền thống ấy được Nguyễn Hiến Lê viết lại
như sau:
"Ở nước ta hiện nay, số hậu duệ của giai cấp ấy kể ra cũng còn được kha
khá, nhưng số người còn giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người
nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom
sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như
có khiếu dạy học nữa.”
(Trích Mười câu chuyện văn chương, Nguyễn Hiến Lê, trang
82).
Quảng trường thi Nam Ðịnh (năm
1897),
thí sinh phải tự làm lều và đặt
chõng để viết bài
Phải chăng truyền thống đó sản
sinh ra những người thầy như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, Trần Trọng Kim, Dương Quảng
Hàm hay như thi sĩ Đông Hồ mà lúc chết học trò khắc trên bia hai câu thơ như
sau:
Ân sâu nghĩa nặng tình dài Khóc
thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi?
Cũng Nguyễn Hiến Lê viết về thầy
Dương Quảng Hàm trong cuốn Hồi ký của ông:
Tất cả học sinh trường Bưởi không ai
không trọng thầy vì vậy. Mà các bạn đồng sự Pháp, Việt cũng quỳ thầy nữa. Thật
đáng tiếc, thầy không thọ, mất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến ở Hà Nội.”(Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 65).
Giáo dục miền Nam đã tiếp nối cái truyền thống
kính trọng ông thầy ấy. Ở miền Bắc thì họ mang thầy ra tố khổ như trong bài viết
của Trần Huy Liệu: “Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển “Việt
Nam Sử Lược” của Trần Trọng Kim” (Tập san sử địa, số 6, 1955).
May là cụ Dương
Quảng Hàm đã chết sớm.
Và họ bắt học trò phải “Quyết tâm thực hiện lời dạy của Hồ
Chủ tịch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng” (Tập san sử địa, số 4, tháng 11, 12-1955,
Hà Nội).
Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh, Lê về trước chưa có thi cử.
Việc tuyển chọn người chỉ là tùy tiện, không câu nệ, nhưng lại cũng không có
phép tắc gì.Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi chọn người tài ra giúp nước.
“Con
đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài
năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử”(Trích Lịch Triều
Hiến Chương loại chí (LTHCLT) của Phan Huy Chú, phần mở đầu chương Khoa Mục
Chí).
Cái mục đích mở khoa thi đã rõ ràng: Chọn người có tài. Nhưng chọn bao
nhiêu? Chọn thế nào? Đó là cả một vấn đề.
Việc thi cử thời xưa còn nhiều điều
bât cập như: Cái học từ chương quá, tỉ lệ thi đỗ quá thấp. 1000 người lấy một.
Có sĩ tử đã để cả đời đi thi mới đỗ. Ông Đoàn Tử Quang tham dự cả thảy 21 khóa
thi từ năm 20 tuổi. Cứ ba năm thi một lần, mãi đến năm 83 tuổi mới thi đỗ. Ông
nội Ngô Tất Tố 7 lần đi thi, bố Ngô Tất Tố sáu lần, phần ông Tố hai lần đi
thi.
Mặc dầu thi cử khó khăn, nhưng tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt. Luật lệ
nghiêm minh như ông Đỗ Nhuận (không phải nhạc sĩ Đỗ Nhuận) viết vào năm
1484:
“Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng nhân tài… Khoa cử
các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức, cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công
bằng, đời sau không thể theo kịp.” (LTHCLC, phần Khoa Mục Chí).
Chỉ cần giữ lại mấy
chữ: Lấy rộng rãi, cách chọn người công bằng. Đời sau không sánh kịp.
Nếu nhìn lại
việc thi cử ở miền Nam, tôi chỉ thấy việc thứ nhất còn chưa ổn, việc thứ hai có
lẽ cũng không thua gi việc thi cử đời Hồng Đức cả. Trừ giai đoạn chót của VNCH,
việc thi cử xem ra có một số trường hợp bê bối. Đã có dư luận đồn thổi về tình
trạng con ông cháu cha, kẻ có tiền của.
Sau này đến đời vua chúa triều Nguyễn,
phép tắc thi cử cũng vẫn nghiêm ngặt như vậy. Nhà vua xem xét từng li từng tí
việc học của các sinh viên trong trường Quốc Tử Giám.
Ta hãy nghe lời phê phán vừa
nặng nề vừa cho thấy mối quan tâm của vua Minh Mạng đối với tương lai giáo dục
ra sao. Năm 1837, vua ra chỉ dụ:
“Thế mà nhìn lại các học quan chỉ biết chiếu lệ
thường khảo hạch cho có, gọi là đã làm xong chức vụ, còn quy trình giảng dạy
thi lên lớp, tiến bộ ra sao, trình độ học sinh như thế nào, không lưu ý tới,
thì bảo sĩ tử gắng sức ở chỗ nào.” (Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ - Bộ Lễ -
Q.192: Học Hiệu).
Thât ra miền Nam có khá nhiều kỳ thi: Thi tiểu học, thi nhập học
lớp đệ thất các trường công lập, thi Trung Học Phổ thông dành cho các lớp đệ tứ
và thi tú tài 1 và 2. Ở đây chưa kể việc thi trên Đại Học, thi tuyển vào trương
chuyên nghiệp như Quốc Gia Hành Chánh, Đại Học sư phạm, các trường Kỹ sư (Phú
Thọ) Điện, Công chánh, v.v...Việc thi cử phần đông tiến hành tốt đẹp.
Chứng chỉ Tú tài
Nguồn: DCVOnline
Tôi chỉ đưa ra một tỉ dụ. Việc
thi vào đệ thất các trường công lập khó mà tránh khỏi một số trường hợp quen biết
gửi gắm. Nhất là tại các tỉnh. Cho dù có gửi gắm cũng không phải là ăn tiền hay
hối lộ. Có thể chỉ vài trường hợp cá biệt, đơn lẻ. Vì thế vẫn bảo đảm được chất
lượng thi cử. Bằng chứng rõ ràng tỉ lệ các học sinh trường công thi đỗ thường
cao hơn trường tư nhiều vì có sàng lọc rồi. Nếu trường tư thi đỗ đạt tỉ Lệ 20%
thì trường công, tỉ lệ thí sinh thi đậu tú tài là 75% đến 85% hoặc hơn thế nữa.
Nếu
tuyển sinh đệ thất không minh bạch thì kết quả thi đỗ tú tài ở trường công tỉ lệ
thi đỗ đã khác.Có nhiều lớp, toàn thể học sinh đều thi đỗ. Đặc biệt một lớp ban
B, trường Petrus Trương Vĩnh Ký, vào năm 1970, toàn thể học sinh đều thi đỗ hạng
Bình trở lên. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp nhà trường dồn học sinh giỏi vào
cùng một lớp. Sau này, lớp học này có nhiều học sinh xuất sắc được học bổng, đi
du học và thành tài. Và một trong những học sinh ưu tú ấy, hai lần đỗ tú tài 1
và 2 hạng ưu, điểm trung bình toàn bộ các môn phải từ 16 trở lên và hiện nay
ngoài công việc chỉ huy ở sở, anh đang giữ trọng trách với một tổ chức phi lợi
nhuận.
Việc học còn từ chươngViệc này, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ngay từ năm
1867 đã phê phán thẳng thừng và dứt khoát, ông viết:
“Nhìn lại sử học của ta
ngày nay, 1867, những điều thầy dạy, những điều trò học, toàn là những chuyện
xa xưa. Lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên ra làm việc thì lại thấy luật-lịch-binh-hình…
Xưa nay, trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy... Nếu đem
cái công phu cả đời đem tâm trí ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện
tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì có thể chống
được giăc...” (Trích Nguyễn Trường Tộ - Con Người và Di Thảo, Trương Bá Cần,
trang 76, NXB Tp. HCM, 1988).
Rất tiếc những lời cảnh báo về cái học từ chương,
“toàn những chuyện xa xưa” không được vua quan để ý tới và kéo dài cho mãi đến
bây giờ.
Mặc dầu việc phê phán của Nguyễn Trường Tộ nhằm vào thời kỳ còn nặng
nho học, nhưng cái tinh thần ấy vẫn còn rơi rớt lại sau này. Chẳng hạn trong
chương trình tiểu học của miền Nam sau này. Học trò tiểu học phải học thuộc
lòng các bài địa lý, lịch sử, cách trí. Học thuộc lòng ra rả như cuốc kêu. Kể
thật cùng tội. Các lớp trung học, nhất là ban Vạn vật thì Vạn vật cũng là môn học
thuộc lòng, môn học đào luyện trí nhớ tốn bao thì giờ công sức mà xét ra ít hữu
dụng. Các môn sử ký, địa lý trong cách giảng dạy, trong cách chấm điểm còn nặng
tính từ chương, thiếu óc phê bình, thiếu nghị luận. Ngay các bài giảng văn cũng
được diễn giải một chiều, ước lệ, có bài bản sẵn, ít đi ra ngoài thông lệ, ít
sáng tạo, thiếu cách đặt lại vấn đề, thiếu phản biện.
Nói chung là còn vướng mắc
nhiều tinh thần lệ thuộc. Lệ thuộc người xưa, lệ thuộc sách vở và ngay cả lệ
thuộc vào ông thầy.
Các lớp dạy luyện thi cho thấy học trò lệ thuộc vào ông thầy
như thế nào.Và đây là một lời dạy khuôn vàng thước ngọc:
"Các người lại không bắt
chước người đời xưa sao, hay là chỉ lấy tiếng ư? Học trò tranh nhau mài gọt,
gây dựng nhân tài, để làm việc nước, có vậy mới không phụ ý trong việc học, hậu
đãi người hiền, mọi người đều phải kính cẩn tuân theo.” (Trích Đại Nam Thực Lục
chánh biên).
Đại NamThực Lục chánh biên là sách ghi chép sử triều Nguyễn từ Gia
Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỳ, mỗi kỳ là một đời vua. Có tất cả 6 kỳ.
Cái
học lệ thuộc thầy, lệ thuộc “cours” còn tồn tại ngay ở các đại học. Sinh viên
thi đỗ chỉ cần thuộc cours của giáo sư giảng trong lớp. Thi cử lấy đỗ khá khắt
khe. Tiêu biểu cho sự khắt khe này là hình ảnh Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất
Tố, một sĩ phu tài tuấn, có lương tri, có tài học mà lận đận với thi cử. Nó là
bản cáo trạng đối với tổ chức lề lối học hành và thi cử thời xưa, lãng phí nhân
tài và chất xám của đất nước.
Người viết đã truy tìm một số kết quả các kỳ thi
Trung Học Phổ Thông và tú tài sau 1954 để cho thấy việc thi cử là khắt khe quá.
Nhưng kết quả tìm tòi còn chưa được như ý muốn.
Năm 1950, đại học văn khoa Sài
Gòn, ở đường Garcerie nay là Phạm Ngọc Thạch mới có 50 sinh viên theo học và 50
dự thính viên. Trường Khoa Học mới có 14 sinh viên đậu chứng chỉ P.C.B, 2 sinh
viên đậu S.P.C.N, 3 sinh viên đậu toán đại cương, 2 sinh viên đậu vật lý đại
cương. Năm 1954-1955 có 13 bác sĩ, 11 dược sĩ, cử nhân luật 159 và rất tiến bộ
đã có 135 người đậu chứng chỉ khoa học.
(Trích Địa chí Văn hóa TPHCM, trang
743-745)
Một học sinh giỏi nhất lớp ở ngoài Bắc vào năm 1948, vậy mà trong học bạ
của anh, không phải điểm số nào anh cũng đạt trung bình (tác giả viết nhầm,
không có điểm số nào anh đạt trung bình - Nguyễn Văn Lục). Xem và đọc để thấy nó vô lý như thế
nào!!! (Chính Nguyễn Văn Lục mới nhầm, vì ông không xem kỹ cột thứ 2: điểm trên 10! Điều này dẫn đến một loạt sai lầm trong bài khảo luận ở phía dưới. - Dovietquoc)
Học bạ 1950
Nguồn: NVL
Giỏi nhất lớp, thông minh mà điểm
chưa đạt trung bình? Và đây là nhận xét của giáo sư Dương Thiệu Tống, người đã
còn giữ học bạ này của học trò gửi cho làm kỷ niệm. (gs Dương Thiệu Tống, trường
Trung Học kiểu Mẫu, Thủ Đức):
“Điểm nhận xét đầu tiên của
tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học
sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây. (Trích “Suy Nghĩ về giáo dục truyền
thống và hiện đại”, Dương Thiệu Tống, nxb Trẻ, trang 279-281)
Nhưng câu nhận xét
sau đây của giáo sư Dương Thiệu Tống thật hơi lạ.
“Vậy phải chăng các thầy giáo
chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm
trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh
ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng
nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” (Trích như
trên)
Giáo sư đã cho phép dành cho đồng nghiệp tìm ra giải đáp thì tôi xin được
thưa với giáo sư như thế này. Giáo sư là thầy của nhiều thế hệ mà bản thân người
viết bài này có thể chỉ là hàng con cháu. Giáo sư đã đi du học Hoa Kỳ mang về
cái bằng Tiến sĩ giáo dục mà vấn đề cho điểm như trên, giáo sư lại thối thác
không cho một giải đáp.
Thưa giáo sư, trồng cây thì phải có quả. Trồng tốt sẽ
cho quả tốt. Trồng người cũng gần như vậy. Dạy học thì trò đi thi phải đỗ.
Không đỗ thì phần trách nhiệm không nhỏ là do thầy, do chương trình, do xã hội.
Điểm phi lý đến nực cười là cho điểm thì đều dưới trung bình mà lại đứng đầu lớp.
Không lẽ học trò đều dốt cả?
Cho dù thế nào đi nữa thì không có lý nào điểm thì
kém, dưới trung bình trong khi lời phê của giáo sư thì nào là giỏi, thông minh,
đáng khen. Như vậy thì nên căn cứ vào điểm hay vào lời phê? Lời phê như thế có
phản ảnh đúng trình độ học sinh hay không?
Giải pháp là xét lại thang điểm và
thay đổi thái độ chấm bài, nhất là bài văn, cần kèm thêm các câu hỏi giáo khoa
hay trắc nghiệm như sau này Bộ (Quốc gia) Giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đem ra
áp dụng.
Thực ra khó khăn do thi cử và giáo dục thì ở đâu cũng có. Mỗi thời mỗi
khó khăn khác. Như tỉnh Québec mà tôi đang ở. Mỗi năm dành 13 tỉ đô la dành cho
giáo dục, vậy mà nhiều học trò trung học, ngay cả đại học còn viết đầy lỗi
chính tả. Ngay ông Thủ tướng trong bài diễn văn đọc về cải cách giáo dục, người
ta tìm ra được 13 lỗi phạm lớn:
“N’est–ce pas le premier ministre Jean Charest,
qui dans un discours à l’Assemblée nationale, affirmait vouloir poursuivre ses
efforts” pour améliorer la qualité de notre langue commune, le francais” alors
qu’il remettait aux journalistes un texte comptant une douzaien de fautes
majeures...”
(Trích “Le grand mensonge de l’éducation”, Luc Germain, Luc
Papineau, Benoit Séguin, trang12).
Phải chăng ngay cả ông Thủ tướng Charest
trong một bài diễn văn đọc trước Quốc Hội khẳng định trong nỗ lực tiếp tục “Cải
tiến phẩm chất tiếng nói chung của chúng ta là tiếng Pháp,” vậy mà, chính ông
Thủ tướng đã phát cho các nhà báo một bản diễn văn trong đó tính ra có đến 13 lỗi
phạm lớn.
Kinh nghiệm đi chấm thi tú tài 2 các bài Triết hay luận Pháp Văn, Anh
Văn cho thấy hệ số bản thân người chấm, hệ số tin cậy và sai số do hai giám khảo
chấm, cách nhau trung bình hai điểm, có khi là 4 điểm. Thường trước khi bắt đầu
chấm, giám khảo ngồi thảo luận “thang điểm”. Phần này thì cho bao nhiêu điểm,
phần kia bao nhiêu điểm. Sau đó cộng lại các điểm đã cho. Sự sai biệt giữa hai
giám khảo chấm cũng một bài là từ hai đến ba điểm, có khi 5 điểm cho thấy việc
chấm thi thiếu công bằng, thiếu khách quan. Giả dụ bài Triết ban C, hệ số 4.
Cách nhau 3 điểm, nhân 4 trở thành cách nhau 12 điểm. Quá bất công cho học trò,
vì nhiều khi chỉ cần một điểm là đủ đỗ?
Kinh nghiệm bản thân khi tôi thi tú tài
2 ban C, chọn Pháp Văn làm sinh ngữ một. Bài thi bắt buộc là một bài luận văn
chương Pháp chọn trong các tác giả thế kỷ 19 như Victor Hugo, Alfred de Vigny,
Lamartine, Chateaubriand, v.v... Sinh ngữ 2 là anh văn thì gồm có một bài luận
luân lý. Cả năm đã học theo chương trình như thế. Nhưng nghe tin đồn là năm
nay, giáo sư Nguyễn Văn Lúa, giáo sư Pháp Văn đại học Văn Khoa xuống chấm thi.
Không ai bảo ai, một số học sinh sợ ăn điểm một hai gậy của giáo sư Lúa bèn trốn
ông, chọn Anh Văn làm sinh ngữ một.
Tên sao trùng với người thế. Gặp ông là lúa
đời rồi. Ông nổi tiếng hung thần đánh rớt học trò. Vậy mà được đồng nghiệp kính
nể. Anh Văn vốn tôi đã chẳng giỏi gì, phần lớn thời gian tự học lấy trong
“Butterfly”. Giọng đọc anh văn thì thầy còn đọc trật huống chi trò. Sang Mỹ này
vừa chẵn 30 năm mà nói Mỹ vẫn chưa hiểu!!!
Sau bài luận văn chương ép uổng đó,
từ đó đến nay, tôi không hề dám viết một câu tiếng Anh nào nữa, mặc dầu việc
biên khảo hiện nay, phần lớn, tôi đều dựa trên sách viết bằng tiếng Anh.
Nói
theo kiểu giáo sư Dương Thiệu Tống, nói Mỹ nó không hiểu thì nó dốt hay mình dốt?
Giáo sư Dương Thiệu Tống còn viết bài: Trẻ Chưa Ngoan, Nguyên nhân? Tôi thấy
ông thật thà quá. Nguyên nhân chính là do nhaf cầm quyền mà ông cứ nói đâu đâu?
Ông Cụ
Vương Hồng Sển trong cuốn Hơn nửa đời hư có kể đi dự thi concours để làm việc
cho Pháp, thi mãi không đậu. Ông viết:
“Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút
với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói
mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều
như đánh bài thua. Nhưng mình vẫn nhất quyết “Không liều như đánh bài,” chỉ còn
tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói.”
Cuối cùng ông kết luận:
“Cám ơn đã được thi rớt.” (Trích Hơn Nửa Đời Hư, Vương Hồng Sển, trang
226-228).
Nói chuyện với mấy vị giáo chức lớn tuổi, họ thường ân hận là trong đời
đi dạy, họ đã chấm điểm ngặt nghèo qua. Vì mình mà có đứa phải đi lính, có đứa
biết đâu vì thế chết ngoài mặt trận.
Sau đây là kết quả các kỳ thi tú tài 1 và
tú tài 2 vào niên khóa 1954-1955 cho thấy kết quả thí sinh thi đỗ là bao nhiêu
của hai chương trình Việt và Pháp lúc bấy giờ.
Bảng 1: Kết quả kỳ thi tú tài I
và 2,
chương trình giáo dục Việt Nam 1953-1954, Sài Gòn-Nam Bộ
Nguồn: Việt Nam
niên giám thống kê, trang 126-130
Bảng 2: Kết quả kỳ thi tú tài 1
và 2 chương trình Pháp 1954-1955
Nguồn: Việt Nam niên giám thống kê, trang
126-130
Một vài nhận xét:
Tú tài Việt
Đây là năm cuối cùng của việc thi
cử trong hệ thống giáo dục của Pháp.
■ Nên nhớ rằng, chính phủ quốc gia chỉ mới công bố chương trình
thi lấy bằng Trung Học Phổ thông đệ nhất cấp kể từ 1950. Khóa 1, tháng
sáu/1950, khóa 2 vào tháng 9/1950.
■ Vì thế không lạ gì số học sinh trường Việt dự thi ít hơn trường
Pháp đến gần một nửa. Điều đó cho thấy việc học chỉ dành cho những người có tiền
của, loại con ông cháu cha khác hẳn kỳ thi năm 1955-1956. Trường Petrus Ký, Gia
Long mới chỉ bắt đầu mở các lớp đệ thất dạy chương trình Việt, nhưng vẫn duy
trì một số lớp chương trình Pháp.
■ Tỉ lệ tú tài 1: thí sinh thi đỗ tú tài 1, Việt Nam, kỳ 1 là
25% cộng cả hai kỳ là 35%. Thấp.
■ Tỉ lệ thí sinh bỏ dự thi tú tài 1, kỳ 2, rất cao. Điều đó cho
thấy, người giỏi thì đỗ ngay kỳ đầu, người không học, sau khi thi thử kỳ đầu,
không đậu đã bỏ luôn, không dự kỳ khóa hai. Đáng nhẽ phải có hơn 800 dự thi
khóa hai, chỉ còn hơn 500 dự thi khóa hai. Đã có khoảng 300 người bỏ cuộc. Cho
dù thi lại, tỉ lệ thi đậu chỉ hơn 10% so với kỳ đầu là 25%.
■ Tỉ lệ tú tài 2: Những người thi tú tài 2 đều giỏi vì đã được
sàng lọc trong kỳ thi tú tài 1. Vì thế tỉ lệ thi đỗ rất cao so với tú tài 1.
70%. Số lượng những người tham dự kỳ thi tú tài 2, khóa hai cũng rất cao, chỉ vắng
mặt vài chục người, vì họ tin rằng họ có thể thi đậu nên không bỏ cuộc.
■ Tỉ lệ thi Trung học đệ nhất cấp đậu cao, đến hơn 50%.
■ Những con số thi cử này sẽ thay đổi nhiều trong các năm tới
khi có số đông học sinh di cư vào Nam cũng như các trường trung học mở ra khắp
nơi.
Tú tài Pháp
■ Nhận xét thứ nhất là thi tú tài Pháp gay go và khó đỗ hơn tú
tài Việt. Vì họ chỉ thi có một kỳ, không có kỳ 2. Tỉ lệ thí sinh thi đậu chỉ đạt
20- 25%. Vì thế sau này không lạ gì, nhiều học sinh đổi sang trường Việt học
thi cả hai kỳ thi Việt Pháp. Tại trường Cao Bá Nhạ, gần đường Cống Quỳnh, Trần
Hưng Đạo, có một trung tâm luyện thi dành cho học sinh chương trình Pháp thi tú
tài Việt. Ai là người đã học trong hai lớp này?
■ So sánh hai bảng thì kết quả thi cử Việt Nam cho đỗ nhiều hơn
thí sinh người Pháp. Phải chăng học sinh Việt Nam học giỏi hơn người Phảp, chăm
hơn người Pháp? Tôi nghiêng về lý do giám khảo Việt Nam chấm rộng hơn giám khảo
Pháp. Và đó phải coi là một ưu điểm, tiến bộ về phía giám khảo Việt Nam.
Thi cử
qua các kỳ thi tú tài 1 và 2 ở miền Nam là công bằng vì tổ chức chặt chẽ và vì
lương tâm nhà giáo.
(Còn tiếp)
0 nhận xét:
Cảm nghĩ của bạn
Cảm ơn bạn đã xem bài đăng! Xin cho biết cảm nghĩ của bạn!