
Dâng sao giải hạn đầu năm là phong tục đã có từ lâu đời, xuất phát từ quan điểm của các nhà hiền triết phương Đông, theo đó, mỗi con người sống trong xã hội đều có một vì sao chiếu mệnh. Báo Pháp luật Việt Nam trích đăng một số tài liệu cổ, nhằm chuyển tải đến bạn đọc ý nghĩa sâu xa của phong tục này…
Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại,
các nhà triết học, thiên văn học qua quan sát vũ trụ - đã cho rằng
những chòm sao kết hợp với sự di chuyển của mặt trời có liên quan đến
vận mệnh của mỗi con người.
Theo quan điểm này, trong khoảng
thời gian chừng 30- 31 ngày (tức khoảng 1 tháng) mặt trời sẽ đi qua một
trong mười hai chòm sao đặc biệt. Ai sinh ra trong thời gian mặt trời đi
qua chòm sao nào thì họ sẽ được chòm sao đó chiếu mệnh và tính cách của
họ cũng bị ảnh hưởng nhiều bởi chòm sao chiếu mệnh này.
12 chòm sao tạo thành 12 cung
trong vòng tròn Hoàng đạo, có thể kể đến một số chòm sao như: Cự giải
(tượng trưng như con cua), Ma kết (con dê có đuôi cá), Nhân mã (con vật
nửa người, nửa ngựa)...
Nhắc sơ qua đến vấn đề này để thấy
rằng, triết học cổ đại phương Đông và phương Tây đã có giao điểm với
nhau. Có thể thấy rằng, các bậc cổ nhân đều nhận định những hành tinh
(hay các chòm sao) đều có ảnh hưởng đến vận mệnh của con người thông qua
sự tương tác với mặt trời và trái đất.
Cổ nhân quan niệm theo vòng quay
của trời đất (cũng có nghĩa là vũ trụ) mỗi một năm trôi qua, mỗi người
sinh ra đều có một vì sao chiếu mệnh nhất định. Theo đó, các vì sao quy
tụ thành 9 chòm được gọi tên: La Hầu, Thổ Tú, Thủy Diệu, Thái Bạch, Thái
Dương, Vân Hán, Kế Đô, Thái Âm, Mộc Đức.
9 chòm sao này được cổ nhân thâu
tóm trong nguyên lý Cửu diệu, cứ luân phiên trở lại trong cuộc đời của
mỗi con người. Như vậy, cứ theo chu kỳ 9 năm thì chòm sao chiếu mệnh sẽ
trở lại một lần. Trong 9 chòm sao này, có sao tốt, có sao xấu. Sự tốt
hay xấu này phụ thuộc vào kinh nghiệm đã hình thành từ ngàn xưa của cổ
nhân.
Qua nhiều ghi chép trong cổ thư,
người xưa cho rằng 9 ngôi sao chiếu mệnh chỉ xuất hiện vào những ngày
nhất định trong tháng, từ đó hình thành tục dâng sao giải hạn vào các
ngày như sau: Sao Thái Dương: Ngày 27 âm lịch. Sao Thái Âm: Ngày 26 âm
lịch. Sao Mộc Đức: Ngày 25 âm lịch. Sao Vân Hán: Ngày 29 âm lịch. Sao
Thổ Tú: Ngày 19 âm lịch. Sao Thái Bạch: Ngày 15 âm lịch. Sao Thuỷ Diệu:
Ngày 21 âm lịch. Sao La Hầu: Ngày 8 âm lịch. Sao Kế Đô: Ngày 18 âm lịch.
Ảnh hưởng của các chòm sao với con người
+ Sao La Hầu: Còn có
tên là Khẩu thiệt tinh, chủ về việc người bị chiếu mệnh hay gặp phiền
phức về chuyện ăn nói, hay liên quan đến công quyền, kiện tụng, gặp
nhiều chuyện phiền muộn, có bệnh tật về tai mắt, máu huyết. Đàn ông gặp
sao này rất xấu, còn phụ nữ bị sao La Hầu chiếu mệnh cũng gặp nhiều
chuyện không hay.
Cổ nhân cho rằng người bị sao La
Hầu chiếu mệnh rất kỵ tháng giêng, tháng bảy. Sao La Hầu giáng trần vào
ngày 8 âm lịch nên cần dâng sao giải hạn vào ngày này. Khi làm lễ, dùng
bài vị màu đỏ, mũ màu đỏ, trên đó ghi: “Thiên Cung Thần Thủ La Hầu Tinh
Quân”, có thể bằng chữ Tàu hoặc chữ Việt đều được nhưng nhất thiết phải
viết dọc theo bài vị. Khi làm lễ thắp 9 ngọn nến bởi sao La Hầu do 9 vì
sao hợp thành, người làm lễ lạy 9 lạy về hướng chính Bắc.
+ Sao Kế Đô: Còn gọi
là Hung tinh, rất xấu đối với nữ giới, kỵ vào tháng ba và tháng chín.
Sao Kế Đô chủ về việc người bị chiếu mệnh hay gặp những chuyện ám muội,
thị phi, có thể gây hao tài tốn của, họa vô đơn chí. Dâng sao Kế Đô vào
ngày 18 âm lịch, khi làm lễ dùng bài vị và mũ màu vàng, trên ghi “Địa
cung Thần Vĩ Kế Đô Tinh Quân”, thắp 21 ngọn nến, lạy 21 lạy về hướng Tây
.
+ Sao Thái Dương:
Còn gọi là Thái dương tinh (tức mặt trời) tốt vào tháng sáu, tháng mười,
nhưng chỉ hợp với nam giới. Sao này chủ về an khang thịnh vượng, nam
giới gặp nhiều tin vui, tài lộc, còn nữ giới thì có thể gặp phải tai
ách. Sao Thái Dương là sao tốt nhất trong các sao, mệnh ai chịu ảnh
hưởng của sao này, đi làm ăn xa gặp nhiều may mắn, tài lộc hưng vượng,
phát đạt. Dâng sao Thái Dương vào ngày 27 âm lịch, bài vị và mũ màu
vàng, được viết như sau : “Nhật cung Thái Dương Thiên Tử Tinh Quân”.
Thắp 12 ngọn nến, lạy 12 lạy về hướng chính Đông
+ Sao Thái Âm: Còn
gọi là Thái âm tinh (tức mặt trăng), tốt cho cả nam lẫn nữ vào tháng
chín nhưng kỵ tháng mười. Cổ nhân cho rằng phụ nữ bị sao này chiếu mệnh
thì không nên sinh đẻ vào năm đó. Sao Thái Âm chủ về danh lợi, hỉ sự.
Dâng sao Thái Âm vào ngày 26 âm lịch, bài vị và mũ màu vàng, trong đó
ghi “Nguyệt cung Thái Âm Hoàng Hậu Tinh Quân”, làm lễ với 7 ngọn nến,
lạy 7 lạy về hướng chính Tây.
+ Sao Mộc Đức: Còn
gọi là Mộc tinh, chủ về hôn nhân, nghĩa là người gặp sao này chiếu mệnh
có thể lập thành gia thất. Nữ giới đề phòng tật bệnh về máu huyết, nam
giới coi chừng bệnh về mắt. Tốt vào tháng mười và tháng chạp âm lịch.
Dâng sao Mộc Đức vào ngày 25 âm lịch, bài vị và mũ màu xanh, ghi rằng
“Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Tinh Quân”. Làm lễ với 20 ngọn nến, lạy 20
lạy về hướng Đông.
+ Sao Vân Hán: Còn
gọi là Hỏa tinh, chủ về tật ách, xấu vào tháng hai và tháng tám âm lịch.
Nam đề phòng gặp tai nạn thương tật, mọi việc kiện tụng đều bất lợi. Nữ
không tốt về thai sản. Đặc biệt cần lưu ý đến việc cháy nổ khi gặp sao
này chiếu mệnh. Dâng sao Vân Hán vào ngày 29 âm lịch, bài vị và mũ màu
đỏ, trên đó ghi “Nam Phương Bính Đinh Hỏa Đức Tinh Quân”. Làm lề với 15
ngọn nến, lạy 15 lạy về hướng chính Đông.
+ Sao Thổ Tú: Còn gọi là Thổ tinh,
chủ về việc người bị chiếu mệnh hay gặp phải kẻ tiểu nhân, xuất hành đi
xa không lợi, có kẻ ném đá giấu tay sinh ra thưa kiện, gia đạo không
yên, không nên đầu tư làm ăn để tránh thua lỗ. Kỵ vào tháng tư và tháng
tám âm lịch. Dân sao Thổ Tú vào ngày 19 âm lịch, bài vị và mũ màu vàng,
có ghi “Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Tinh Quân”. Làm lễ với 5 ngọn nến và
lạy 5 lạy về hướng Tây.
+ Sao Thái Bạch: Còn
gọi là Kim tinh hay Triều dương tinh. Dân gian vẫn có câu “Sao Thái
Bạch, sạch cửa nhà”. Thực chất sao này không xấu đến thế. Chỉ cần giữ
gìn trong công việc kinh doanh, đề phòng tiểu nhân quấy phá thì có thể
sẽ tránh được hao tài tốn của. Kỵ vào tháng năm âm lịch và kỵ màu trắng
quanh năm. Tuy thế, sao Thái Bạch lại hợp với những người mang mệnh
Thuỷ, mệnh Kim, vì có quý nhân giúp, nên gặp sao này đi làm ăn xa có thể
mang về tiền tài của cải. Dâng sao Thái Bạch vào ngày 15 âm lịch, bài
vị và mũ màu trắng, trên đó ghi “Tây Phương Canh Tân Thái Bạch Tinh
Quân”. Làm lễ với 8 ngọn nến, lạy 8 lạy về hướng chính Tây.
+ Sao Thủy Diệu: Còn
gọi là Thủy tinh hay Phước lộc tinh, tốt nhưng cũng kỵ tháng tư và
tháng tám. Sao này chủ về tài lộc và những việc vui mừng. Tuy nhiên,
không nên đi sông biển, nữ giới cần giữ gìn lời nói, nếu không sẽ có
tranh cãi, lời tiếng thị phi đàm tiếu. Dâng sao Thủy Diệu vào ngày 21 âm
lịch, bài vị và mũ màu tím, ghi rằng “Bắc Phương Nhâm Quý Thủy Đức Tinh
Quân”. Làm lễ với 7 ngọn nến, lạy 7 lạy về hướng chính Bắc.
Ngày nay, tại các chùa chiền
thường làm lễ dâng sao giải hạn vào đầu năm từ mồng 8 đến ngày Rằm tháng
Giêng. Tuy nhiên, theo quan điểm Phật giáo, không có ghi chép nào về
việc vận mệnh con người bị ảnh hưởng bởi các chòm sao.
Thực chất của “lễ dâng sao” này
theo nhiều nhà sư chỉ là lễ cầu an cho chúng sinh vào ngày đầu xuân năm
mới. Về mặt tâm linh, người dân tin rằng khi làm lễ cầu an cũng đã là lễ
dâng sao giải hạn cho gia đình và bản thân mình.
Có điều, thời gian gần đây, nhiều
người đã biến việc dâng sao tốt đẹp này thành những hoạt động có tính
chất mê tín dị đoan. Mỗi lần dâng sao đều tốn kém rất nhiều công sức,
tiền của. Thực chất, đó là việc làm đi ngược lại quan niệm tốt đẹp của
cổ nhân. Bởi xét cho đến cùng, nếu con người chỉ nghĩ đến những điều tốt
đẹp, sống và làm việc theo luật pháp, giữ cho cái tâm trong sáng thì
cho dù có gặp sao chiếu mệnh xấu cũng sẽ được hóa giải, biến dữ thành
lành. Trong lễ dâng sao từ ngàn xưa, cổ nhân đề cao lễ bạc tâm thành là
như thế./.
0 nhận xét:
Cảm nghĩ của bạn
Cảm ơn bạn đã xem bài đăng! Xin cho biết cảm nghĩ của bạn!