Ăn để
sống và sống để ăn là hai phản đề, hai cách sống, hai quan niệm rất khác
xa nhau. Sống để làm việc nên cần ăn để duy trì sự sống làm việc đó,
hoàn toàn khác với sống để ăn, ăn cho thỏa thích, ăn để hưởng thụ, ăn là
mục đích hàng đầu và cũng là mục đích cuối cùng, tối thượng...
Có nhiều người đã từng
nhận xét: Ăn thường được các nhà trước tác mô tả kỹ càng, từ món ăn đến
cách ăn, kiểu làm món ăn... còn uống thì hình như có nhiều thi vị hơn
nên được các nhà thơ chú ý nhiều hơn. Có lẽ ăn có cái gì đó hơi “phàm
phu tục tử”, còn uống thanh tao hơn chăng nên văn xuôi nhiều về ăn, thơ
nặng về uống?
Phạm Đình Hổ (1768-1839) đã từng viết về uống chè (trà): “...Thường
có nhiều người đến chơi các hiệu chè, thăm dò các phố buôn, vác tiền,
hết quan ấy đến chục khác, để mua lấy chè ngon. Lúc ngồi rỗi pha chè
uống với nhau, lại đánh cuộc xem chè đầu xuân năm nay cao hay hạ. Kẻ thì
ưa thanh hương, người thích hậu vị, kén hiệu trỏ tên, mua cho được chè
ngon, bày khay chén ra nếm thử. Thậm chí có kẻ đặt tiền sẵn mua cho được
hiệu chè Chính Sơn, gửi tàu buôn đặt cho được kiểu ấm mới lạ... Song
cái thú uống chè có phải ở chỗ đó đâu. Chè tàu thú vị ở chỗ tính nó sạch
sẽ, hương nó thơm tho. Buổi sớm gió mát, buổi chiều trăng trong, với
bạn rượu làng thơ cùng làm chủ khách mà ung dung pha ấm chè tàu ra
thưởng thức thì có thể tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục... Còn như
nếm chè ở trong đám ruồi nhặng, bày ấm chén ở cửa chợ bụi lầm, lúc ồn
ào đinh óc, vơ vẩn rộn lòng, thì dù ấm có đẹp đẽ, chè ngon ngát lừng, ta
chẳng biết uống chè như thế có thú vị gì không?...”.
Vũ Hoàng Chương là “nhà thơ say” nhưng ông cũng biết thưởng thức hương trà lắm, khác Cao Bá Quát một thời không ưa trà ướp hương vì cho rằng hoa át trà như khách át chủ. Nhà thơ say họ Vũ đã uống trà sen, nâng hương thơm lên tay mà thở than cho loài hoa tan tác
đời mình:
Vũ Hoàng Chương là “nhà thơ say” nhưng ông cũng biết thưởng thức hương trà lắm, khác Cao Bá Quát một thời không ưa trà ướp hương vì cho rằng hoa át trà như khách át chủ. Nhà thơ say họ Vũ đã uống trà sen, nâng hương thơm lên tay mà thở than cho loài hoa tan tác
Hồn sen thoảng ngát trà dâng đượm
Ai biết hồn sen rụng xác xơ...
Cánh rã rời theo nhịp ngón thon
Trắng phau muôn hạt lệ hương tròn
Lăn rơi trên lớp trà khô héo
Lưu chút thơm thừa gửi nước non
Nâng chén mời anh thưởng vị trà
Đừng quên tan tác mấy đời hoa
Cạn từng hớp nhỏ cho sen đượm
Vớt lại trần gian mộng chính ta...
Uống trà mà không phải uống trà. Không
phải uống trà mà chính là uống trà... Vì thế, chiếc nõn cây chè, làn
khói hương trà, vị ngọt màu trà đã thoát ra ngoài ngụm uống, miếng ăn để
trở thành cái cớ cho con người liên tưởng và tha thiết nỗi đời, chính
đó là văn hóa.
Về rượu thì còn nhiều nhà bình luận, sáng tác, cảm nghĩ về nó, nếu Trung Hoa có một Lưu Linh thì Việt Nam cũng có không ít những tửu đồ lừng danh. Chắc chắn nhiều người đã thuộc câu thơ bất hủ của Tam nguyên Yên Đổ khóc bạn Dương Khuê:
Về rượu thì còn nhiều nhà bình luận, sáng tác, cảm nghĩ về nó, nếu Trung Hoa có một Lưu Linh thì Việt Nam cũng có không ít những tửu đồ lừng danh. Chắc chắn nhiều người đã thuộc câu thơ bất hủ của Tam nguyên Yên Đổ khóc bạn Dương Khuê:
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua...
Và một Tản Đà ngất ngưởng suốt một đời,
thành công đã lắm mà thất bại cũng nhiều, đã từng có lần muốn đào bật
nền nhà lát gạch lên để... trồng đôi ba khóm húng Láng mà say sưa cùng
men rượu để làm thơ...
Cũng còn nhiều áng văn chương tuyệt vời khác về Ẩm, chủ yếu là thơ hoặc văn vần. Còn về Thực, cũng có không ít trang viết đầy hấp dẫn.
Cũng còn nhiều áng văn chương tuyệt vời khác về Ẩm, chủ yếu là thơ hoặc văn vần. Còn về Thực, cũng có không ít trang viết đầy hấp dẫn.
Ẩm thực đã vượt khỏi tầm
vật chất mà trở thành yếu tố văn hóa, một mảng văn hóa đậm đà, duyên
dáng và cốt cách. Có một Nguyễn Tuân cầu kỳ và kiểu cách, cũng trang
trọng đầy nghệ thuật, từ cốm Vòng đến miếng giò lụa hay bát phở... Đặc
biệt, nhà văn Vũ Bằng ở miền Nam mà luôn ròng ròng nước mắt nhớ về quê
hương đất Bắc, đã rút từ tim gan viết nên cuốn sách bất hủ “Thương nhớ mười hai”, tức là 12 tháng mỗi năm và 12 món ăn trác tuyệt kinh thành Hà Nội, của đồng bằng Bắc Bộ...
Vũ Bằng sinh ra ở Hà Nội ngày 3/6/1913 và
mất ở Sài Gòn ngày 8/4/1984, nghĩa là ông ở Sài Gòn chẵn 30 năm từ ngày
di cư (1954). Một đời viết văn viết báo, ông để lại hàng chục tập sách,
hàng vạn trang viết, trong đó có hai quyển sách rất quý là Miếng ngon Hà Nội và Thương nhớ mười hai, nhất là cuốn Thương nhớ mười hai,
tức là 12 nỗi nhớ về 12 tháng của miền Bắc, kèm theo là 12 món ăn dù đi
xa, dù đến chết cũng không thể nguôi quên. Có người nói ông viết cuốn Thương nhớ mười hai không bằng mực mà bằng nước mắt, tự chấm ngòi bút vào máu trong tim mình để viết nên.
Hình như đến nay, người ta sắp xếp có 5 nhà văn viết nhiều và viết hay về văn chương ẩm thực, trong đó có Vũ Bằng.
Hình như đến nay, người ta sắp xếp có 5 nhà văn viết nhiều và viết hay về văn chương ẩm thực, trong đó có Vũ Bằng.
Vũ Bằng đã ra đi 15 năm.
Tro di hài ông trong chùa Vĩnh Nghiêm nay ra sao, tết về, bình tro có
cựa quậy chút nào để nhớ về cái nắng miền Nam, cái rét miền Bắc, những
món ngon Hà Nội, món lạ miền Nam...? Không hiểu có phải Vũ Bằng ngây thơ
không hay ông bảo thủ, một cái bảo thủ quá đáng yêu vì ông quá yêu đất
nước, quá yêu miền Bắc, quá yêu Hà Nội, quá yêu bản sắc dân tộc mình.
Nghĩ mà thương ông, mỗi Tết về hồn ông lay động gió giao thừa Hồ Gươm,
đi qua phố Hàng Bông, Hàng Gai, mà nhớ ông, mà tiếc cho ông không được
cùng chúng tôi bước sang thế kỷ 21 đầy kinh dị và mới mẻ này.
Xin thưa hương hồn nhà văn lớp đàn anh
rằng: Miền Bắc, nhất là Hà Nội, những năm qua đã thay đổi đến mức phi
thường. Những thay đổi ấy có nhiều điều vui nhưng cũng không ít điều
không vui, nếu không nói là buồn.
Sân khấu dân tộc không có khách. Độc giả lảng tránh thơ văn. Ca nhạc phát lên là người ta tắt máy. Thanh niên ưa nhảy nhót kiểu lắc là chính. Nạn uống rượu lan tràn. Nhạc không giai điệu chỉ có tiết tầu chát tùng bằng trống đánh. Nhiều con trai con gái đã không còn coi mớ tóc dài là đẹp, là phương Đông. Họ cắt ngắn cụt ngủn, cả cô ca sỹ đến gái “cave”. Họ nhuộm tóc, nên nếu Vũ Trọng Phụng sống lại, hẳn chàng họ Vũ này phải viết ngoài Xuân tóc đỏ còn có Xuân tóc xanh, Xuân tóc vàng, Xuân tóc tím... nói về một tầng lớp đua đòi, không biết bản sắc dân tộc là gì, cũng không cần sống bằng bản lĩnh vì họ không có bản lĩnh...
Sân khấu dân tộc không có khách. Độc giả lảng tránh thơ văn. Ca nhạc phát lên là người ta tắt máy. Thanh niên ưa nhảy nhót kiểu lắc là chính. Nạn uống rượu lan tràn. Nhạc không giai điệu chỉ có tiết tầu chát tùng bằng trống đánh. Nhiều con trai con gái đã không còn coi mớ tóc dài là đẹp, là phương Đông. Họ cắt ngắn cụt ngủn, cả cô ca sỹ đến gái “cave”. Họ nhuộm tóc, nên nếu Vũ Trọng Phụng sống lại, hẳn chàng họ Vũ này phải viết ngoài Xuân tóc đỏ còn có Xuân tóc xanh, Xuân tóc vàng, Xuân tóc tím... nói về một tầng lớp đua đòi, không biết bản sắc dân tộc là gì, cũng không cần sống bằng bản lĩnh vì họ không có bản lĩnh...
Nước ta trải dài ở nhiều
vĩ độ, có vùng đất cổ, có nơi đất mới, có hòa khí thiêng liêng, có hơi
thở khẩn hoang, vì vậy, nhà văn Sơn Nam ở phía trời Nam đã nói: Ăn uống
Nam Bộ là ăn uống khai hoang, xô bồ, cần no, cần nhanh mà không cầu kỳ,
nó khoáng đạt đúng tính chất người Nam Bộ, dân phiêu bạt chốn chân
trời... Còn miền Bắc, miền Trung lại khác. Ngay một vùng đồng bằng và
một miền trung du, một miền núi cao và một vùng biển sóng... cũng có
nhiều biến dị, đổi thay do phong tục, tập quán, tác phong... Có người
còn nói rằng, mọi mặt đời sống thường nhật, tính cách con người, văn
hóa, tri thức... đều được phản ánh qua chuyện ăn uống. Chính vì thế có
câu: “Anh hãy cho biết anh ăn thế nào, tôi sẽ chỉ cho anh biết anh là ai!”, chí lý thay!
Băng Sơn
0 nhận xét:
Cảm nghĩ của bạn
Cảm ơn bạn đã xem bài đăng! Xin cho biết cảm nghĩ của bạn!