Nơi chia sẻ thông tin, cảm xúc và những vấn đề cùng quan tâm của nhóm bạn học sinh Thủ Khoa Nghĩa Châu đốc, niên khoá 1971-1978
25 tháng 4, 2015
THÔNG BÁO!
BĐH nhóm bạn HS TKN 7178 sẽ tổ chức viếng tang ba của bạn Đường Văn Sang vào lúc 19h00 tối nay, 25/4/2015.
Bạn nào tham gia thì tập trung tại nhà bạn Linh, đúng 19h00 khởi hành!
24 tháng 4, 2015
Đồng bằng sông Cửu Long – 40 NĂM NHÌN LẠI - Kỳ 3
* LÊ PHÚ KHẢI
(tiếp theo)
NHỮNG
DẠNG ĐÒI ĐẤT
(Trích
sổ tay phóng viên)
-
Xáo canh, khi thực hiện khoán theo chỉ thị 100, cán bộ, đảng viên lợi dụng chức
quyền giành phần ruộng tốt gần nhà mình, phân bổ cho họ hàng bà con, phe cánh
của mình ruộng tốt, chừa phần đất xấu cho xã viên, tập đoàn viên. Nay xã viên
đòi được trở về canh tác ruộng cũ của mình. Bị cán bộ đàn áp.
-
Có con đi nghĩa vụ quân sự bị cắt bớt đất, nay con trở về, đòi lại phần đất bị
cắt.
-
Khi khoán, ít lao động, nay con cái lớn đòi được trả lại đất đã bị điều hòa bớt
đi trước kia.
-
Có ruộng bị điều hòa trước kia, nhưng lại điều cho ngụy quân, ngụy quyền. Nay
đòi lại (vì vẫn ghét ngụy quân ngụy quyền đã tàn sát nhân dân).
-
Có ruộng bị điều hòa trước kia, nay thấy người được nhận ruộng của mình lười
biếng, bỏ ruộng hoang nên đòi lại.
-
Có ruộng bị điều hòa trước kia, nay người được nhận ruộng của mình có nhà ngói,
sân gạch, giàu có hơn chính mình nên tức mà đòi lại.
-
Có ruộng bị điều hòa trước kia, nay đời sống của gia đình vẫn no đủ… Người được
nhận ruộng của mình vẫn còn khổ vì có ít ruộng. Nhưng thấy bàn dân thiên hạ đi
đòi thì cũng đòi, được lại ruộng cũ thì càng hay, không được thì thôi.
-
Có ruộng bị xáo canh phân cho người khác. Còn mình thì nhận ruộng mới. Bán
ruộng mới ăn hết rồi. Nay đòi ruộng cũ (!)
-
Không có ruộng cũng đi đòi (!) Đòi hộ người khác, nếu đòi được thì có “chỉ”, có
tiền. Lúc đi đòi được người khác thuê, chi phí ăn uống, vui chân nên đi đòi!!!
-
Có ruộng bị điều hòa, nay đòi lại, chính quyền, hợp tác xã xét cấp trả lại thêm
một số diện tích đã bị điều hòa trước kia nhưng không chịu. Đòi được trả lại
hết. Cán bộ giải thích, nếu đòi hết thì người đang trực canh hết ruộng, chết
đói. Không chịu, vẫn tiếp tục đòi.
-
Ruộng từ đời ông cố nội, qua bao nhiêu thăng trầm qua tay nhiều người, nay lấy
cớ là của ông cha. Đòi !
-
Ruộng cha mẹ chia cho con cái. Nay con cái tranh giành hơn thiệt, đâm đơn thưa
kiện, trong lúc chờ phân xử, lấn chiếm xô xát nhau… vân vân… và… vân vân…
Có
lẽ không cần bình luận nữa. Chỉ với những lý do đòi đất như chúng tôi thu lượm
được, cũng đủ cho thấy việc tranh chấp đất đai hiện nay là rất phức tạp. Phải
giải quyết cụ thể từng trường hợp, không thể nôn nóng, “quơ đũa cả nắm”, hoặc
cứng nhắc giữ thái độ ủng hộ phía đòi đất hay phía giữ đất (!)
Nhà
báo Hữu Thọ, nếu tôi nhớ không lầm thì lúc đó là Phó Tổng biên tập báo Nhân
dân, đã vào Nam để đi quan sát tranh chấp ruộng đất ở Đồng bằng sông Cửu Long.
Ông đã đến Tiền Giang – nơi tranh chấp nóng bỏng nhất – tôi đã “báo cáo” ông
những gì lượm lặt được về tranh chấp ruộng đất. Sau đó, báo Nhân dân đã có một
loạt bài viết về sự kiện này.
Điều
nguy hại nhất là, khi chưa có chỉ đạo của Trung ương, trước tình trạng tranh
chấp ruộng đất ngày một lan rộng, một số lãnh đạo các tỉnh không chịu nhìn
thẳng vào sự thật mà đổ lỗi cho “địch phá hoại”, có bàn tay của CIA… thế là
xong. Cần thì… bắt!
Ngày
15/8/1988 báo Nhân Dân đã đăng bài nhan đề: “Giải quyết tranh chấp ruộng đất ở
Tiền Giang theo hướng nào” của tôi. Xin chép lại nguyên văn bài báo đó:
GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP RUỘNG ĐẤT Ở
TIỀN
GIANG THEO HƯỚNG NÀO?
Tình
hình tranh chấp ruộng đất ở Tiền Giang vẫn không có chiều hướng giảm. Có vụ gần
đây rất quyết liệt như vụ xảy ra lúc ba giờ chiều 18-7-1988 ở ấp Tây Hòa, xã
Song Thuận, huyện Châu Thành. Trên một công rưỡi đất lúa hè thu đã trổ bông của
gia đình ông Trần Văn Đầy, lực lượng dân quân xã, dưới sự chỉ huy của chủ tịch
xã Ngô Thị Hoa đã đến cắt phá ruộng lúa này. Khi con trai của ông Đầy là anh
Trần Văn Nghi thấy thế vác con dao đang làm việc trên cánh đồng gần đó chạy tới
ngăn cản thì lực lượng du kích đã nổ súng hăm dọa anh, sau đó bao vây nhà ông
Đầy cho tới khuya. Nguyên nhân của việc phá lúa này là cán bộ xã muốn răn đe
gia đình ông Đầy đã đòi lại công rưỡi đất khi con trai ông là Nghi hoàn thành nghĩa
vụ quân sự trở về. Thiếu ruộng làm, ông phải đòi lại thửa ruộng đã phải điều
hòa bớt đi khi con trai ông đi nghĩa vụ. Lực lượng dân quân xã phá lúa của ông
vì sợ việc ông Đầy đòi lại được ruộng thì bao nhiêu gia đình khác cũng sẽ đòi
lại ruộng, sẽ nhằm vào gia đình cán bộ xã đang chiếm dụng nhiều ruộng đất nhất,
vượt quá tiêu chuẩn bình quân theo lao động. Những sự việc như thế không phải
là hiếm và đang tiếp tục diễn ra trên đồng ruộng Tiền Giang. Theo con số chính
thức của tỉnh, từ đầu năm đến nay có hơn 2600 vụ khiếu nại đòi lại ruộng đất tự
động lấy lại ruộng đất trước kia đã điều hòa,
Xảy
ra tranh chấp nhiều nhất trong tỉnh là huyện Chợ Gạo với hơn 500 vụ, tiếp sau
là Cái Bè 453 vụ, Châu Thành 425 vụ, Cai Lậy 410 vụ; tổng diện tích tranh chấp
trong cả tỉnh khoảng 1.000 ha.
Nguyên
nhân tranh chấp đất đai ở Tiền Giang hiện nay rất phức tạp. Có nhiều cách giải
thích khác nhau, đánh giá khác nhau và đi đến những biện pháp giải quyết khác
nhau trên thực tế và trên công luận. Qua nghiên cứu nhiều đơn khiếu nại của
nông dân, đối thoại trực tiếp với nhiều hộ nông dân và cán bộ trong tỉnh, kể cả
đối thoại với các đồng chí lãnh đạo như bí thư tỉnh ủy, chủ tịch UBND tỉnh, qua
nhiều lần xuống tận nơi xảy ra tranh chấp dẫn tới xô xát và đối thoại với các
đương sự ngay trên thửa ruộng còn ngổn ngang những dấu vết tranh chấp, chúng
tôi tạm nêu lên một số nguyên nhân như sau:
Một
là, chính sách quản lý ruộng đất của Đảng và Nhà nước nói chung, ở địa phương
Tiền Giang nói riêng đang khuyến khích người làm ruộng. Nông dân thật sự thấy
làm ruộng hiện nay có lợi, cho nên một số không ít trước đây từng bỏ ruộng nay
lại quay về với ruộng đất. Đó là khía cạnh đáng mừng.
Hai
là, so với các tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tiền Giang là tỉnh ít ruộng đất
nhất. Có thể nêu một vài con số làm thí dụ, diện tích đất tự nhiên của huyện
Hòn Đất tỉnh Kiên Giang tới 110 nghìn hecta, tương đương với cả diện tích đất
canh tác của tỉnh Tiền Giang. Bình quân ruộng đất trên đầu người của huyện Vĩnh
Hưng thuộc tỉnh Long An nằm trong vùng Đồng Tháp Mười là ba héc-ta, gấp 30 lần
bình quân ruộng đất ở Tiền Giang. Vì thế, việc tranh chấp ruộng đất đang là vần
đề của cả Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng ở Tiền Giang là gay gắt nhất. Trên
thực tế, Tiền Giang không có điều kiện giải quyết tranh chấp ruộng đất như ở
những tỉnh láng giềng còn vùng đất hoang rộng lớn, bằng cách trả lại ruộng đã
bị điều hòa cho chủ cũ và người trả đất được nhận đất mới ở vùng khai hoang,
điều kiện khách quan không có vùng đất khai hoang rộng lớn cũng gây không ít
khó khăn cho lãnh đạo tình Tiền Giang trong việc giải quyết tranh chấp ruộng
đất.
Ba
là, ngay từ khi có chủ trương điều hòa ruộng đất, rồi sau đó là khoán hộ, cán
bộ xã và tập đoàn sản xuất, hợp tác xã ở một số nơi đã tư túi, không thực hiện
giữ nguyên canh, xáo trộn đất đai để giành phần ruộng tốt, gần nhà cho gia đình
dòng họ và phe cánh của mình; chừa phần ruộng xấu cho xã viên, tập đoàn viên.
Nay nhờ mở rộng dân chủ, rộng đường dư luận, người nông dân bị thiệt thòi trước
kia, nay đòi lại ruộng cũ của mình. Chỉ thị UBND tỉnh Tiền Giang (ngày
10-5-1988) và những chỉ thị trước đó về vấn đề tranh chấp ruộng đất, cũng có
nói đến việc phải mạnh dạn sửa chữa, điều chỉnh cho hợp lý, nhưng không được
cấp huyện và xã thi hành triệt để hoặc có thi hành thì chỉ trên giấy tờ, hình
thức.
Bốn
là, do một số nông dân nghe theo bọn xấu xúi giục, lợi dụng việc mở rộng dân
chủ đề gây rối, nhằm đục nước béo cò. Nhưng số này không nhiều. Nguyên nhân này
không phải là nguyên nhân cơ bản.
Tình
hình nói trên ở Tiền Giang và những nguyên nhân của tình hình ấy đòi hỏi có
những biện pháp tháo gỡ một cách có hiêu quả và kịp thời, không thể để tình
trạng như hiện nay tiếp tục diễn tiến. Cần có ngay một hội nghị chuyên đề về
tranh chấp ruộng đất ở Đồng bằng sông Cửu Long do Trung ương tổ chức. Đề nghị
của tỉnh Tiền Giang trong báo cáo gửi Hội đồng Bộ trưởng ngày 16-5-1988 có nêu
vấn đề cần có sự chỉ đạo chính thức thống nhất cho cả nước vấn đề tranh chấp
ruộng đất, tránh tình trạng mỗi nơi, mỗi địa phương làm một cách. Đó là đề nghị
đúng và rất cần thiết lúc này với Đồng bằng sông Cửu Long.
Sau
Hội nghị thống nhất đó, các tỉnh có vấn đề tranh chấp ruộng đất, dựa trên Luật
đất đai của Nhà nước đã ban hành và những chỉ thị hướng dẫn dưới luật do hội
nghị nói trên thông qua để có cách giải quyết đồng loạt, dứt điểm trên phạm vi
rộng. Muốn vậy, các tỉnh phải tập trung thời gian và cán bộ, thành lập một ban
chuyên trách lo giải quyết vấn đề này. Cách làm như hiện nay, chỉ thông qua con
đường kiện tụng, hòa giải, xét xử ở các phòng tiếp dân, thông qua một vài bài
báo trên cơ quan thông tin đại chúng của địa phương, không giải quyết được tận
gốc vấn đề, chỉ có tính cách chữa cháy, nhỏ giọt.
Việc
nóng bỏng cần làm ngay ở Tiền Giang là chặn đứng những hành động thô bạo của
cán bộ chính quyền cấp xã đang phá rau màu, bắt giữ trái phép những nông dân bị
oan ức, vì chưa hiểu luật đất đai, thậm chí vì bọn xấu xúi giục, mà đòi lại
ruộng đất. Xung đột về ruộng đất ở Tiền Giang cũng như ở các nơi trên Đồng bằng
sông Cửu Long là thuộc những mâu thuẫn nội bộ, nhất thiết phải được giải quyết
trên tinh thần công khai hòa giải để tìm ra phải trái, tìm cách phân xử trong
các đại hội của tập đoàn sản xuất, của xã, ấp. Mọi hành động như bắt trói và
phá hoại rau màu đều là thô bạo, trái với pháp luật, phải được ngăn chặn và trừng
trị thích đáng.
Dư
luận trong tỉnh đang đòi hỏi đưa ra xét xử trước pháp luật những cán bộ cấp xã
ở Hòa Tịnh (huyện Chợ Gạo), ở Điềm Hy và Song Thuận, v.v… trong việc bắt giữ
trái phép những nông dân và phá hoại rau màu trong các vụ tranh chấp ruộng đất.
Riêng
đối với tỉnh Tiền Giang, tuy là một tỉnh ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng phải
đặt vấn đề di dân đi khai hoang các tỉnh khác thuộc miền Tây hoặc miền Đông Nam
Bộ vì đất quá hẹp người quá đông. Sau ngày giải phóng. Diện tích trồng lúa của
Tiền Giang là 120 nghìn hecta. Dân từ 1,2 triệu; nay lên 1,4 triệu. Như vậy là
mất đi một huyện đất và thêm một huyện dân. Thống kê năm 1985, bình quân ngày
công lao động trong cả năm từ 200 đến 220 ngày, tức là từ năm đến bảy tháng,
người nông dân phải ở không; tới nay tới nay số ngày ở không còn nhiều hơn. Đây
là những nguyên nhân chính dẫn đến tranh chấp ruộng đất. Những quân nhân hết
hạn nghĩa vụ quân sự trở về, lúc đi bị cắt đất, lúc về không còn đất để canh
tác, như trường hợp anh Trần Văn Nghi con ông Trần Văn Đầy ở xã Song Thuận
huyện Châu Thành kể trên là 1 thí dụ tiêu biểu.
Chưa
bao giờ người nông dân Đồng bằng sông Cửu Long nói chung và nông dân Tiền Giang
nói riêng thiết tha với ruộng đất, nỗ lực sản xuất như lúc này. Nếu những tranh
chấp ruộng đất hiện nay được giải quyết chắc chắn sức sản xuất sẽ được bật lên
mạnh mẽ hơn lúc nào hết. Với cách nhìn như thế, những tranh chấp ruộng đất hiện
nay ở Tiền Giang là không có gì đáng lo ngại, nếu chúng ta quyết tâm giải quyết
một cách đúng đắn...
--------------
* Cùng
với hàng loạt các bài báo khác được đăng tải trên báo Nhân Dân và các báo khác
ở Trung ương… vấn đề tranh chấp ruộng đất ở Đồng bằng sông Cửu Long đã có hướng
giải quyết. Hội đồng chính phủ sau đó có Hội nghị về vấn đề này ở Cần Thơ do
Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt chủ trì đã có kết luận tháo gỡ dần
những khó khăn. Đồng bằng sông Cửu Long từ đó bước vào một giai đoạn mới, phát
triển đúng hướng khi ruộng đất đã được trả về cho dân cày từ chủ trương khoán
10 của Bộ Chính Trị.
(còn tiếp)
LPK
23 tháng 4, 2015
Bí ẩn bộ lạc tự cô lập với thế giới bằng cách... giết người lạ
Trên một hòn đảo thơ mộng ở Ấn Độ Dương, có một cộng đồng người thiểu
số sinh sống ở đó đã 60.000 năm. Tuy nhiên, họ tự cô lập với thế giới
văn minh, hiện đại bên ngoài và không muốn tiếp xúc với phần còn lại của
thế giới.
Thậm chí, du khách nào muốn tham quan, khám phá nơi đây sẽ rất nguy hiểm vì họ luôn sẵn sàng giết chết người lạ.
Có
thể gọi hòn đảo Bắc Sentinel là đảo thiên đường. Nhìn từ trên cao, nó
trông cực kỳ thơ mộng với bãi biển đẹp tuyệt vời, rừng nguyên sinh bao
quanh.
Nhưng
khách du lịch hay ngư dân đi ngang qua đây không dám đặt chân lên đảo
thiên đường này ở Ấn Độ Dương vì tiếng tăm về sự đáng sợ của cư dân nơi
đây.
Du khách ưa mạo hiểm hay muốn tiến
gần tới đảo đều bị các thành viên của một bộ lạc bí ẩn tấn công. Từ xa
xưa đến nay, họ luôn từ chối nền văn minh hiện đại và không muốn tiếp
xúc với người lạ.
Họ luôn chống lại người bên ngoài bằng hành vi bạo lực. Năm 2006,
bộ lạc này đã giết chết hai người đàn ông đánh bắt cá bất hợp pháp tại
đây. Họ đã tấn công bằng mũi tên tẩm lửa và ném đá tới tấp lên chiếc máy
bay trinh sát, trực thăng bay ở tầm thấp làm nhiệm vụ trinh sát.
Vì khó tiếp cận như vậy, nên tất cả ảnh chụp hay video về hòn đảo
đều có chất lượng rất thấp. Do đó, người ta biết rất ít về những cư dân
sinh sống trên đảo cũng như ngôn ngữ, nghi lễ và chính hòn đảo mà họ gọi
là nhà.
Để bảo vệ bộ lạc này (cũng chỉ vì những nỗ lực tiếp cận thất bại),
chính phủ Ấn Độ thành lập một khu vực vành đai bảo vệ bao quanh hòn đảo
với bán kính 3 dặm (4,8km). Và họ được gọi với cái tên là "bộ tộc thời
kỳ đồ đá". Họ gần như không mặc gì cả và sinh sống bằng cách săn bắt
sinh vật biển.
Do bị cô lập, khả năng họ bị xóa sổ bởi một bệnh dịch nào đó là rất
cao, theo tổ chức phi chính phủ đấu tranh vì quyền lợi của các thổ dân
Survival International.
Hình ảnh vệ tinh của NASA cho thấy đảo Bắc Sentinel này tương đương diện tích đảo Manhattan (Mỹ).
Theo Huyền Anh
Lao động
22 tháng 4, 2015
Đồng bằng sông Cửu Long – 40 NĂM NHÌN LẠI - Kỳ 2
* LÊ PHÚ KHẢI
(tiếp theo)
II
- ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG TRƯỚC NĂM 1975
A/
Từ thuở mang gươm đi mở cõi…
(Thơ
Huỳnh Văn Nghệ)
Sau
45 năm bất phân thắng bại với các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài (1727-1772), chấm dứt
cuộc chiến, các chúa Nguyễn lo “mở cõi” về Phương Nam. Đồng bằng sông Cửu Long rộng
lớn, đất hoang ngút ngàn “ruộng không cần cày, phát cỏ rồi cấy, cấy một hột
thóc, gặt được 300 hột” như Lê Quý Đôn đã viết trong “Phủ biên tạp lục”… luôn
được các chúa Nguyễn coi trọng, xem là miền đất hứa, là hậu phương, là chỗ dựa,
là căn cứ địa về kinh tế cho cuộc tranh bá đồ vương… nuôi ý chí thống nhất
giang sơn của mình ...
Ngay
từ năm 1659, Triều đại Paramaraja VIII của Chân Lạp đã cho phép thần dân của
chúa Nguyễn được định cư trên lãnh thổ Chân Lạp, được sở hữu đất đai mà họ khai
thác như một công dân Khmer vậy.
Chúa
Nguyễn rất khuyến khích việc đưa dân lưu tán vào khai thác vùng đất Đồng bằng
sông Cửu Long. Để mở mang vùng đất mới, tạo điều kiện cho khẩn hoang, đi lại,
buôn bán… các chúa Nguyễn đã cho đào các con kênh quan trọng từ những năm đầu
của thế kỷ 18 (1705) ở vùng Mỹ Tho. Qua đến đầu nhà Nguyễn, tức một trăm năm
sau (đời Gia Long 1802-1820), một trong số các con kênh này được đào vét quy mô
và được đặt tên là sông Bảo Định. Cái tên đó được giữ đến bây giờ. Một nhà thơ
đương đại với chúng ta quê ở xã Mỹ Thiện huyện Cái Bè tỉnh Tiền Giang đã lấy
tên con sông đó đặt bút hiệu cho mình: Bảo Định Giang (!).
Vào
đầu thế kỷ 18, Đồng bằng sông Cửu Long được mở rộng thêm nhờ sát nhập của đất
Hà Tiên. Nguyên Hà Tiên do một người Trung Hoa là Mạc Cửu vượt biển đến mở
mang. Đến năm 1708, Mạc Cửu ra Thuận Hóa xin quy phục chúa Nguyễn, và được chúa
Nguyễn lập Mạc Cửu làm tổng binh Hà Tiên, và đổi đất Hà Tiên thành trấn. Lần
lượt các năm 1732, 1756 vùng Mỹ Tho, Long Hồ rồi Tầm Bôn, Lôi Lạp (Tức Long An
và Gò Công ngày nay) được các vua chúa Chân Lạp nhường cho chúa Nguyễn. Sau đó
Mạc Thiên Tứ (thay cha là Mạc Cửu cai quản đất Hà Tiên) còn được các Chân Lạp
tặng cho 5 phủ nữa để sát nhập vào đất Hà Tiên. Như vậy là sau gần một thế kỷ,
các chúa Nguyễn đã tiến đến mũi Cà Mau – giang sơn của chúa Nguyễn liền một dải
từ sông Gianh đến vịnh Thái Lan.
Trong
thời kỳ giao tranh với nhà Tây Sơn (1771-1802) Đồng bằng sông Cửu Long vẫn được
các chúa Nguyễn chú ý khẩn hoang. Sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh Gia Long
(1802-1820) và các triều vua Nguyễn sau đó: Minh Mạng (1820-1840), Thiệu Trị
(1841-1847), Tự Đức (1847-1883) đều chú ý đến việc khai hoang trên quy mô cả
nước mà Đồng bằng sông Cửu Long là một trọng điểm.
Để
tiến hành khẩn hoang Đồng bằng sông Cửu Long, nhà Nguyễn đã rất chú trọng việc
đào kênh, dẫn nước vô đồng ruộng đồng thời tạo nên một hệ thống đường thủy
thuận tiện cho việc đi lại, vận chuyển lúa gạo, buôn bán ở vùng đất mới này.
Trong
hệ thống kênh rạch được đào bằng sức người ấy, có thể kể ra một số con kênh
chính như sau:
Kênh
Đông Xuyên – Kiên Giang đào năm 1818, đây là con kênh dài đầu tiên được đào
dưới triều Nguyễn. Kênh được đào theo một lạch nước cũ và sau một tháng thì
hoàn thành. Để ghi công người phụ trách đào kênh là Thoại Ngọc Hầu, vua Gia
Long lấy tên ông đặt cho con kênh mới mà sách sử quen gọi là sông Thoại Hà.
Kênh Vĩnh Tế được khởi công vào năm 1819, dài 100 km chạy từ Châu Đốc đến Hà
Tiên. Những con kênh được hình thành từ thế kỷ trước cũng được nhà Nguyễn nạo
vét, nới rộng như kênh Bảo Định ở Mỹ Tho, kênh Ruột Ngựa ở Chợ Lớn.
Trong
số những kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long dưới triều Nguyễn, có một con kênh
nổi tiếng mang tên người phụ nữ, đó là kênh Vĩnh Tế - tức Châu Vĩnh Tế, vợ
Thoại Ngọc Hầu, vì bà đã có công giúp chồng đôn đốc sức dân binh đào kênh như
đã kể ở trên. Kênh Vĩnh Tế chạy men theo biên giới Việt Nam –
Campuchia. Sách “Lịch sử Việt Nam”
của tác giả Tôn Nữ Quỳnh Trân do NXB Trẻ TP.HCM ấn hành 1988 đã kể về con kênh
nổi tiếng này như sau: “Để tiến hành việc đào con kênh này, nhà Nguyễn đã để ra
hơn hai năm cho việc chuẩn bị. Nguyên vào năm 1817, sau khi đặt nền bảo hộ trên
đất Chân Lạp, vua Gia Long muốn củng cố mặt sau của Nam Vang, cho tăng cường,
sửa sang đồn Châu Đốc. Nhưng đường từ Châu Đốc đến Hà Tiên lại không thông, nhà
vua xuống chiếu điều động người Việt đẵn chặt gai góc cây cối để khai thông
dòng sông. Mọi chi phí do Gia Định chu cấp. Công việc tiến hành chưa bao lâu
thì qua hai năm sau nhà vua chỉnh lý lại kế hoạch đào kênh. Nhà vua cho đo đạc
lại cẩn thận các đoạn cần phải đào, lên danh sách rạch ròi chiều dài của mỗi
đoạn, vạch con đường kênh tiếp giáp với sông Giang thành thông ra vịnh Thái
Lan.
Vua
giao cho Nguyễn Văn Thoại (1762-1829) chỉ huy công trình này. Bấy giờ Nguyễn
Văn Thoại đang giữ chức Trấn thủ Định Tường, đồng thời làm Bảo hộ Chân Lạp. Ông
cũng vừa hoàn thành công trình đào sông Tam Khê (1818) nối cảng Đông Xuyên đến
sông Kiên Giang. Công trình này được hoàn thành chỉ trong vòng một tháng. Ghi
công cho ông, vua Gia Long đã đặt tên cho con sông đào này là Thoại Hà.
Cùng
thi công trên công trình đào kênh Châu Đốc – Hà Tiên, còn có hai phụ tá của
Nguyễn Văn Thoại là Chưởng cơ Nguyễn Văn Tuyên và Điều bát Nguyễn Văn Tồn. Công
trình được chia làm nhiều đợt, bắt đầu bằng việc phát cỏ vào năm 1818 chiếu
theo đồ bản đã được vạch từ trước. Mười chiếc thuyền được phái đi khảo sát thực
tế các lòng sông, xem đoạn nào cạn hẹp, đoạn nào cây cỏ đã được cắt phát cùng
biên chép các chế độ thủy triều, định vị các nơi giáp nước (là nơi hai dòng
thủy triều giáp nhau, nước đứng không chảy phải đợi khi nước ròng mới chuyển
được).
Công
việc đào vét được khởi công vào tháng Chạp năm Kỷ Mão (1819) bắt đầu từ sau đồn
Châu Đốc kéo dài về phía Nam 3265 trượng (3265 x 3.2 = 10448m). Dân ở tỉnh Vĩnh
Long được chia thành phiên, mỗi phiên 5.000 người, binh lính đang đồn trú ở đồn
Uy Viễn cùng đồn Châu Đốc có 500 người được trưng dụng cho việc đào kênh. Ngoài
ra vua Chân Lạp cũng phải cho dân mình tham gia vào việc đào vét, cử mỗi phiên
là 5.000 người, có 100 quan Chân Lạp phụ trách số người này. Mỗi phiên làm việc
trong một tháng và hạn định là ba tháng thì hoàn tất công trình này. Đoạn công
trình được chia làm hai phần. Phần ngắn khoảng 3000m nhưng đất cứng do người
Việt đào. Dân làm xâu hàng tháng được lãnh sáu quan tiền và một vuông gạo.
Sử
liệu ghi lại rằng để cho đường kênh được thẳng Nguyễn Văn Thoại cho đốt đuốc
trên những cây sào dài, vào ban đêm những cây sào lửa ấy là những cọc tiêu để
nhắm đường kênh cho ngay thẳng.
Đoạn
công trình này được hoàn thành sau đó ba tháng. Nhà vua xuống chỉ đặt tên cho
dòng sông mới khai này là Vĩnh Tế.
Đến
đời Minh Mạng, công trình đào kênh Vĩnh Tế được nhà vua đặc biệt chú ý ngay từ
năm đầu mới lên ngôi (1820). Nhà vua “không ngại phí tốn nhiều, mong cho chóng
xong việc sông, cho yên công trước” (Đại Nam Hội Điển Sử Lệ, Huế, 1993, tập 13,
Tr. 210), cho tiếp tục công việc. Tuy nhiên, trước nỗi cực nhọc của dân chúng,
sau 3 tháng 15 ngày điều động, vua Minh Mạng cho dân phu được nghỉ việc.
Công
việc được tiếp tục vào các năm sau đó. Đặc biệt năm 1822 số dân phu người Việt
trưng dụng lên đến 39.000 người. Tất cả chia làm ba phiên. Đợt này đang được
thi công nửa chừng lại ngưng vì nạn hạn hán.
Qua
đến năm 1825, còn lại đoạn kênh chưa đào là 1070 trượng (3424m). Vào tháng hai
âm lịch, công việc lại được tiếp tục với các dân phu của năm trấn Phiên An,
Biên Hòa, Vĩnh Long, Định Tường, Hà Tiên cùng binh lính các đồn. Có tất cả ba
phiên, một tháng lần lượt thay đổi.
Đào
thông kênh xong lại trở qua việc nới rộng lòng kênh từ 6 trượng lên đến 12,5
trượng (40m)”.
Thế
là ròng rã hơn 5 năm, con kênh Vĩnh Tế nối Châu Đốc với Hà Tiên đã được thông.
Con kênh này không chỉ là phương tiện giao thông, là hệ thống tưới tiêu mà còn
là một đường biên cương bằng nước đã được đóng cọc nhiều lần trong các cuộc
giao tranh. Chỉ bằng sức người, con kênh Vĩnh Tế rộng thênh thang và dài 100km
đã hoàn thành. Có biết bao con người đã hy sinh, đã chết cho con kênh xanh,
Nguyễn Văn Thoại lấy cốt các dân binh đã chết chôn rải rác dọc con kênh, đưa về
cải tang tại triền núi Sam (Châu Đốc) và đây cũng là nơi an nghỉ của Nguyễn Văn
Thoại và phu nhân Châu Vĩnh Tế (1826).
Kênh
Vĩnh Tế, thành quả lao động to lớn của con người đã được nhà Nguyễn ghi lại
hình ảnh trên cao đỉnh, một trong bộ cửu đỉnh danh tiếng của triều Nguyễn”.
Như
vậy là người Việt chúng ta đã đào kênh tại Đồng bằng sông Cửu Long từ thế kỷ 17
dưới thời các chúa Nguyễn và công việc này trở thành quy mô Nhà nước khi các
chúa Nguyễn thống nhất được đất nước, lập nên nhà Nguyễn. Nhìn vào hệ thống
kênh đào của các chúa Nguyễn, vua Nguyễn… chúng ta thấy, nó đã vạch những nét
phác thảo đầu tiên cho hệ thống kênh rạch cắt dọc, cắt ngang đồng bằng tạo
thành những ô vuông rất thuận tiện cho tưới tiêu các cánh đồng, vườn cây, thuận
lợi cho giao thông đường thủy…
Hệ
thống kênh đào này càng trở nên chằng chịt sau đó… và cho đến hôm nay chúng ta
vẫn tiếp tục công việc của cha ông năm xưa là đào kênh đắp đập nhằm hoàn thiện
hệ thống thủy lợi ở Đồng bằng sông Cửu Long phục vụ sản xuất và đời sống con
người.
Đến
nay, hệ thống kênh đào ở Đồng bằng sông Cửu Long đã có chiều dài tổng cộng lên
đến 4900 km (trong tổng số 6000 km sông rạch ở Đồng bằng sông Cửu Long chưa kể
đến 11.404 km các luồng lạch nhỏ… ), trong đó có 1575 km rộng từ 18 đến 60 mét,
480 rộng từ 8 đến 16 mét, còn lại là những con kênh có chiều rộng từ 8 mét trở
xuống.
B/
Thời Pháp thuộc đến thời Mỹ - Thiệu
Khi
bình định được đất Nam Bộ, việc đầu tiên là thực dân Pháp tập trung vào khai
thác vùng Đồng bằng sông Cửu Long nhằm vào cây lúa. Sau đó mới bắt đầu khai
thác miền Đông nhằm vào cây cao su. Phương thức khai thác cây lúa Đồng bằng
sông Cửu Long của thực dân Pháp từ khi chúng đặt chân lên đất Nam Bộ đến tháng
8/1945 là bóc lột tối đa với vốn đầu tư ít nhất, tức là bóc lột sức lao động
của những tá điền nghèo đói, không có con đường nào sinh sống, ngoài việc mướn
ruộng trả tô cho địa chủ. Tô cao đến 45-50% sản lượng, ngoài ra còn thêm “tức”
do điền chủ cho vay nặng lãi. Suốt đời người tá điền ở Đồng bằng sông Cửu Long
nghèo đói và phụ thuộc vào điền chủ!
Biện
pháp của thực dân Pháp để thực hiện bóc lột là đào mương bằng xáng (dùng máy
hơi nước) rồi bán đấu giá những ruộng trong vùng được hưởng nước với giá 4 tạ
lúa/1 hecta đất với ruộng gần kênh, 2 tạ lúa/ 1hecta với ruộng xa kênh. Với
cách này, chúng tạo ra một giai cấp điền chủ làm tay sai cho chúng để bóc lột
tá điền suốt gần một thế kỷ cai trị (!).
Ngay
từ năm 1860, một năm sau khi phá đồn Gia Định, Pháp đã mở cảng Sài Gòn bán gạo
cho 246 chiếc tàu, chở đi 54.000 tôn-nô trị giá 5 triệu phơ-răng. Pháp đào kênh
Xàno (1903), kênh Chợ Gạo (1908) làm đường xe lửa Sài Gòn – Mỹ Tho, xây cầu qua
2 sông Vàm Cỏ (Đông và Tây) sau này, cũng nhằm chuyên chở gạo. Đến năm 1890
Pháp đã xuất 500 ngàn tấn gạo. Năm 1900 xuất 775 ngàn tấn. Từ năm 1930 Pháp
thành lập Sở lúa gạo Đông Dương nhưng hoạt động chính ở Đồng bằng sông Cửu
Long. Sở lúa gạo có hoạt động chọn lọc giống địa phương nhằm nâng cao chất
lượng gạo. Nhưng do nghèo đói, tá điền không quan tâm gì đến cải tiến kỹ thuật
canh tác, các giống lúa mới chỉ được áp dụng trên phạm vi hẹp. Bình quân năng
suất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long từ năm 1926 đến năm 1930 là 1,15 tấn/1
hecta, năm 1943 được mùa nhất cũng chỉ 1,4 tấn/1 hécta. Diện tích lúa ở Đồng
bằng sông Cửu Long đến năm 1930 đạt 2,3 triệu hecta. Tuy quảng canh năng suất
thấp nhưng do diện tích lớn, dân số còn thưa nên vẫn có gạo xuất hàng năm. Đỉnh
cao nhất vào năm 1940 vào khoảng 1,8 triệu tấn, đứng thứ hai trên thế giới sau
Miến Điện (2,5 triệu tấn).
Sau
cách mạng tháng 8/1945, suốt thời kỳ 30 năm chống Pháp và chống Mỹ, cây lúa
Đồng bằng sông Cửu Long đã chịu đựng những thử thách lớn lao, trải qua những
chế độ xã hội khác nhau với những mưu đồ khác nhau.
Trong
kháng chiến chống Pháp 9 năm, chính sách ruộng đất “người cày có ruộng” của
Đảng và Nhà nước đã gắn bó người nông dân Đồng bằng sông Cửu Long với kháng
chiến và cách mạng. 817 ngàn hecta ruộng đất đã được cách mạng chia cấp cho
nông dân trong thời kỳ này. Đến thời Mỹ, không chỉ nhằm có khai thác như kiểu
thực dân Pháp, chế độ Sài Gòn chia nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long ra làm hai
khu vực. Khu vực gọi là an toàn thì chúng mua chuộc và khống chế. Ở khu vực
chưa chiếm được thì đánh phá, hủy diệt. Họ dồn dân vào ấp chiến lược. Thực chất
là nhằm tàn phá sức sản xuất. Bác Phan Công Châu, một du kích đã tham gia trận
Ấp Bắc (1963) thuộc xã Tân Phú huyện Cai Lậy tỉnh Tiền Giang kể lại rằng: Sau
trận Ấp Bắc, đi đánh phá đâu về, còn thừa bom đạn, máy bay đều dành về qua Ấp
Bắc mới dội xuống! Xã chúng tôi đến hòa bình lập lại có đến hơn 80 thanh niên
tàn tật vì bom đạn.
Bởi
vậy, sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị thất bại, sau này Mỹ - Thiệu lại đưa ra
chính sách “hữu sản hóa nông dân” ra luật “Người cày có ruộng”. Nhưng chỉ đưa
tới việc xáo trộn ruộng đất, gây chia rẽ trong nông thôn mà thôi. Thật là có
duyên, khi tôi đang viết những dòng này thì nhận được cuốn “Đồng bằng sông Cửu
Long” của tác giả Phan Quang gửi cho từ Hà Nôi qua đường bưu điện. Đây là cuốn
sách viết về Đồng bằng sông Cửu Long rất sớm sau ngày đất nước thống nhất. Nó
được tái bản nhiều lần. Cuốn sách mà tôi vừa cầm trên tay đây là cuốn Đồng bằng
sông Cửu Long của Phan Quang được tái bản lần thứ 5 bởi nhà xuất bản Lao Động.
Chỉ cần nhìn hình thức cuốn Đồng bằng sông Cửu Long của Phan Quang được tái bản
lần đầu vào năm 1985 do NXB Cửu Long và Mũi Cà Mau…, nó được in bằng những “cỡ”
chữ nhỏ li ti trên thứ giấy đen xì, mà tôi đã phải đọc nhiều lần đến toét con
mắt với cuốn sách mới tái bản hôm nay, giấy trắng phau, chữ in rõ ràng, đọc
“vừa mắt”, bìa nhìn “mát mắt” thì đã thấy Đồng bằng sông Cửu Long có nhiều thay
đổi qua 40 năm, phải “nhìn lại” nó là cần thiết (!).
Khi
đất nước vừa thống nhất, từ con mắt quen nhìn những mảnh ruộng bé nhỏ ở đồng
bằng Bắc Bộ, những mảnh ruộng khô cằn ở miền Trung… Phan Quang bắt gặp “gần bốn
triệu hécta đất đai tự nhiên bằng phẳng một cách kỳ lạ”, với cảm xúc dạt dào
của một nhà văn, ông đã thốt lên: “Như vậy đó, hiện tại và hoang sơ, bí ẩn và
cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, Đồng bằng sông Cửu Long hiện lên trước
mặt ta, ngồn ngộn sức sống” (Đồng bằng sông Cửu Long – NXB Mũi Cà Mau – 1985,
trang 10). Nhưng với con mắt sắc sảo của một nhà báo có hiểu biết rộng và tầm
nhìn chiến lược, ở trang 164 của sách này, ông đã nhận xét: “Mỹ và chế độ cũ
đưa hàng loạt máy bơm nhỏ cho từng gia đình nông dân, nhưng tuyệt nhiên không
làm những công trình thủy lợi đầu mối. Nói cách khác, tình trạng lệ thuộc vào
thiên nhiên vẫn y nguyên như trước, thậm chí cả trăm năm về trước… Nông dân bỏ
mất tập quán dùng phân chuồng phân xanh. Và khỏi phải nói, một khi toàn bộ xăng
dầu, phụ tùng thay thế, giống, phân bón, thuốc trừ sâu, phương tiện vận chuyển,
các loại máy gặt, đập, sấy khô, xay xát, chế biến đều lệ thuộc nước ngoài, thì
nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam cộng hòa còn lại những gì? Có thể nói không
sợ ngoa rằng, hạt lúa làm ra ở Đồng bằng sông Cửu Long thời Mỹ - Thiệu, trừ ánh
sáng mặt trời cần thiết cho sự quang hợp, còn thì phụ thuộc vào nước ngoài!”
“…
Những công trình thủy lợi đầu mối” mà tác giả nhắc đến ngay từ buổi ban đầu đất
nước thống nhất với Đồng bằng sông Cửu Long, đó chính là gót chân A-Sin
(Achille) của nền nông nghiệp miền Tây Nam bộ. Tôi cũng bắt chước tác giả
Phan Quang mà nói “không sợ ngoa” rằng: Mọi cố gắng của chính thể mới sau năm
1975 đều dồn sức vào “Những công trình thủy lợi đầu mối” mà ông Thủ Tướng quê ở
Vĩnh Long Võ Văn Kiệt đã nói một cách quả quyết: “Đồng bằng sông Cửu Long đi
lên bằng cái gì, công nghiệp hóa bằng cái gì… nếu không phải là cơ sở hạ tầng –
là cái rất cơ bản để giải quyết hàng loạt các vấn đề khác. Hạ tầng đó là thủy
lợi gắn với giao thông và gắn với đời sống. Để làm được điều đó trong tình hình
hiện nay, thời gian như thế, là một yêu cầu rất cao và rất gay gắt. Nhưng đó là
một sự lựa chọn không cách nào khác. Vì thế, chúng ta phải tập trung, phải dành
dụm, phải huy động một cách cao nhất tài lực và vật lực. Nhưng nếu chúng ta
không lựa chọn phương án hết sức khó khăn này thì Đồng bằng sông Cửu Long sẽ
tụt hậu xa, chẳng những nguy cơ với đồng bào vùng Đồng bằng sông Cửu Long mà
còn nguy cơ đến nhịp độ phát triển của đất nước”. (Trích băng ghi âm phát biểu
tại Hội nghị triển khai Quyết định 99TTg ngày 13-3-1996 tại TP.HCM – do tác giả
của cuốn sách này ghi âm tại chỗ). Đất nước đã hòa bình là điều kiện tốt để xây
dựng những công trình lớn.
Phần
phát biểu trên của Thủ tướng Võ Văn Kiệt được trích dẫn ngay trang đầu, có kèm
ảnh Thủ tướng đang phát biểu trên Hội nghị trong cuốn “Hồ sơ Đồng bằng sông Cửu
Long” của tác giả, in năm 2000 do NXB Thanh Niên ấn hành.
Đến
đây, xin mở ngoặc, nói một câu chuyện vui. Khi tác giả đưa bản thảo cuốn “Hồ sơ
Đồng bằng sông Cửu Long” để cố vấn Võ Văn Kiệt đọc. Xem xong cố vấn trả lại
không nói gì cả. Trợ lý của cố vấn lúc đó là ông Vũ Đức Đam, khi đưa trả lại
bản thảo cuốn sách này cho tác giả, ông Đam nói: Phải sửa lại lời Thủ tướng Võ
Văn Kiệt… vì nó… lủng củng!!! Tác giả đã phải giải thích: Đây là tôi trích
nguyên văn lời “nói vo”, không phải diễn văn viết sẵn, nên nó phải là như thế,
không thể khác được… băng ghi âm hiện tôi còn lưu giữ…!!!
Viết
đến đây, bên tai tôi còn văng vẳng lời Thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc đó, ông nói
rất quyết liệt, rất hùng hồn với tất cả tâm huyết… trước một cử tọa ngồi chật
cả Hội trường Dinh Thống Nhất tại TP.HCM, gồm cán bộ chủ chốt của tất cả các
tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long từ cấp huyện trở lên, ngoài ra còn có đại biểu của
các Bộ - Ngành của Trung ương, có cả các lãnh đạo hai huyện ở Đồng bằng Bắc Bộ
đã làm tốt các “Công trình thủy lợi đầu mối” để báo cáo kinh nghiệm cho Đồng
bằng sông Cửu Long…
“...
Các công trình thủy lợi đầu mối” mà nhà báo Phan Quang đã nhắc đến từ ban
đầu... chính là đề tài, là công việc đã phải làm ở Đồng bằng sông Cửu Long từ
năm 1996 về sau với bao nhiêu khó khăn, vất vả và cả những thắng lợi to lớn
đáng ghi nhận ở đồng bằng, cũng như biết bao lời chỉ trích nặng về sau này cần
phải được minh bạch hóa trên tinh thần khoa học, khách quan... Đó cũng chính là
phần cơ bản của cuốn sách này sẽ được trình bày ở phần sau...
III
- NHỮNG BƯỚC ĐI BAN ĐẦU
Sau
ngày đất nước thống nhất, Ban Nông vận khu 9 đã điều tra cho hay, trong toàn
khu có 77.841 hộ nông dân bị xáo trộn 216.899 hecta ruộng đất, trong đó có 46
ngàn hộ sang bán 86.695 hecta, 101.134 hộ không có ruộng chiếm 21%; 39,5%
hộthiếu ruộng đất...
Về
sản xuất, rừng là cái nôi, là nguồn gốc độ phì nhiêu của đất thì đã bị tàn phá,
bị rải chất độc hóa học trên hàng triệu hécta. Những tội ác cố ý như thế đã dẫn
đến tình trạng từ năm 1965 đến năm 1973, chính quyền Sài Gòn mỗi năm phải nhập
400 ngàn tấn gạo!.
Sau
ngày 30/4/1975, từ những vùng bị dồn ép, từ thị xã, thành phố... nông dân Đồng
bằng sông Cửu Long trở về với ruộng đồng. Trên hoang tàn đổ nát của chiến tranh
hủy diệt, người nông dân Đồng bằng sông Cửu Long lại tưới mồ hôi lên đồng ruộng
để xây dựng lại cuộc sống của mình. Một phong trào khai hoang, phục hóa, làm
thủy lợi rầm rộ khắp nơi. Kết quả là vụ lúa Đông – Xuân đầu tiên 1975 – 1976 đã
thắng lợi lớn. Tổng sản lượng lúa cả năm của Đồng bằng sông Cửu Long năm 1976
đạt 4,61 triệu tấn, ổn định lương thực trong vùng và ngay năm đầu tiên đó Đồng
bằng sông Cửu Long đã đóng góp cho cả nước gần 1 triệu tấn lương thực, điều hòa
cho miền Bắc và miền Trung bị thiên tai nặng!.
Ngay
từ những năm đầu cây lúa Đồng bằng sông Cửu Long đã lựa chọn con đường từ quảng
canh một vụ mùa sang thâm canh tăng vụ với giống mới năng suất cao. Đó là sự
lựa chọn đúng. Nhưng ngày vui “ngắn chẳng tày gang” hiểm họa đã ập đến với nhân
dân Đồng bằng sông Cửu Long. Đó là trận lũ lụt lớn năm 1978. Kể từ trận lụt thế
kỷ 1961, đây là lần thứ hai, Đồng bằng sông Cửu Long chứng kiến một trận lũ lớn
như thế. Sau lũ lớn, vụ Đông – Xuân 1978 – 1979 theo quy luật phải được mùa vì
đồng ruộng được bồi đắp phù sa, nhưng thiên tai lại ập đến. Đó là nạn sâu rầy
chưa từng có tàn phá đồng ruộng trên diện rộng. Lần đầu tiên trong lịch sử
“mang gươm đi mở cõi” của mình, người nông dân tại vựa lúa gạo này phải ăn bo
bo. Đến nay, cứ nhắc đến năm 1978, những người lớn tuổi ở Đồng bằng sông Cửu
Long lại nhắc đến hai từ bo bo (!)
Thiên
tai lũ lụt sâu rầy rồi cũng qua đi, nhưng những tai họa do con người tự mang
đến cho mình lại phủ bóng đen lên Đồng bằng sông Cửu Long. Đó là những chủ
trương nóng vội đưa nông dân vào Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Ruộng đất được
đưa vào làm ăn tập thể “cha chung không ai khóc” nên sản xuất đình đốn, đất
đai, ruộng vườn không được chăm sóc nên thiếu hụt hàng hóa, lương thực... khiến
đời sống người nông dân ngày một sa sút. Phó giáo sư tiến sỹ Vũ Trọng Khải, một
chuyên gia hàng đầu về khoa học quản lý nông nghiệp phải thừa nhận: “Chúng ta
vận động nông dân vào Hợp tác xã, tập đoàn sản xuất trên cơ sở tập thể hóa
quyền sở hữu ruộng đất và đã căn bản hoàn thành vào năm 1985. Nhưng trên thực tế,
mục tiêu phát triển sản xuất, cải thiện đời sống của hợp tác hóa không thực
hiện được, trình độ sản xuất hàng hóa giảm nghiêm trọng...” (Hai mô hình kinh
tế và sự đổi mới kinh tế qua thực tiễn phát triển nông nghiệp ở Việt Nam – NXB Chính
trị Quốc gia – 2002, trang 515).
Cùng
với việc tập thể hóa nông nghiệp, chính sách quản lý thị trường, ngăn sông cấm
chợ đầu những năm 80 thế kỷ trước, những lộng hành của hệ thống các trạm trại
quản lý thị trường, thâu thuế, đăng kiểm tàu bè ở cái xứ sông rạch chằng chịt
này đã gây nên bao bất bình, căm phẫn cho người nông dân vốn rất hiền lành ở
Đồng bằng sông Cửu Long.
Đầu
những năm 80, người viết cuốn sách nhỏ này có mặt ở Đồng bằng sông Cửu Long với
tư cách là phóng viên thường trú của Đài Tiếng nói Việt Nam tại đồng bằng, có
dịp rong ruổi trên sông nước Cửu Long đã chứng kiến tận mắt những cảnh rất đau
lòng do bộ máy quan liêu, hống hách, tiêu cực gây ra với đồng bào.
Những
năm 80 là những năm diễn ra cảnh “ngăn sông cấm chợ” khủng khiếp nhất ở nước
ta. Ở Đồng bằng sông Cửu Long, nơi có nhiều hàng hóa nông sản nhất nước, cảnh
ngăn sông cấm chợ càng tệ hại. Trạm thuế Tân Hương, vị trí giáp ranh của tỉnh
Tiền Giang với Long An là địa danh khét tiếng một thời. Xe cộ từ các tỉnh miền
Tây lên đến đây bị ùn tắc vì phải đỗ lại để quản lý thị trường khám xét. Khách
hàng phải xuống xe hết để nhân viên quản lý thị trường lên xe xăm soi từng cái
gầm ghế. Một cân gạo, một trái dừa khô, một ký đường… cũng bị tra hỏi. Có anh
bộ đội về phép đem 10 kg gạo, khi bị quản lý thị trường giữ, anh ta nói có giấy
phép của ông Đỗ Mười, quản lý thị trường quát: “Dù là ai cũng tịch thu!”. Sự
việc trên ra đời ở cái vùng nhiều lúa gạo nhất ở nước này là Đồng bằng sông Cửu
Long.
Tôi
đã có lần đi qua trạm Tân Hương, lấy máy ảnh chụp đoàn xe nối đuôi nhau cả cây
số để chờ khám xét, đã bị quản lý thị trường trạm Tân Hương bắt, nhốt vào một
cái phòng tối om cả nửa ngày, mặc dù trước đó, đã trình thẻ nhà báo, nhưng vẫn
bị tịch thu cuộn phim trong máy ảnh. Khi về cơ quan thường trú ở TP.HCM, báo
cáo việc này, giám đốc Nguyễn Thành đã bảo tôi viết một bài ghi nhanh ở Tân
Hương, nhưng khi thu băng rồi, gửi ra Hà Nội, đài Tiếng nói Việt Nam cũng không
dám phát, vì lúc đó việc quản lý thị trường là “một chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước!”.
Nhưng
nói đến nạn ngăn sông cấm chợ thì những năm đầu thập niên 80 (Thế kỷ 20) ở Đồng
bằng sông Cửu Long phải nói đến tình trạng vận chuyển đường sông mới là đáng
nói. Vì đa số hàng hóa ở đồng bằng đều do đường sông đảm nhiệm. Sông Tiền và
sông Hậu rộng mênh mông nối với mạng lưới kinh rạch chằng chịt ở đồng bằng, có
những nơi hẻo lánh và đặc điểm của vận tải sông là ghe thuyền chạy suốt đêm
ngày, vì động cơ của nó luôn có cấu tạo để luôn có nước sông làm mát, không như
ô tô chạy trên bộ. Các trạm thuế vụ, trạm quản lý thị trường đều được trang bị
súng… nên họ lộng hành và dân vận tải sông rên xiết dưới sự “kiểm soát” của họ.
Một cái ghe chở hàng mấy chục tấn, đang chạy giữa sông Tiền, sông Hậu rộng mênh
mông, chỉ cần nghe một phát súng trường nổ trên bờ là phải quay vào để thuế vụ,
quản lý thị trường kiểm tra giấy tờ, khám xét hàng hóa. Nếu đủ giấy tờ và không
chở “hàng lậu” thì cũng phải nộp tiền chi phí phát đạn vừa nổ để báo hiệu tàu
thuyền phải quay vào bờ… Giá tiền một phát đạn như thế muốn tính bao nhiêu cũng
phải chịu. Tôi đã đi theo một đoàn ghe 5 chiếc, mỗi chiếc có tổng trọng tải 25
tấn của Hợp tác xã vận tải đường sông Rạch Gầm tỉnh Tiền Giang chở thuê cho nhà
nước từ các kho ở tỉnh Kiên Giang lên kho của Tổng công ty lương thực Miền Nam
ở TP.HCM, cả đi lẫn về 11 ngày liền nên đã được chứng kiến tận mắt cảnh các
trạm kiểm soát dọc đường sông ở Đồng bằng sông Cửu Long đã hành hạ các chủ ghe
và thủy thủ của họ như thế nào. Có chủ ghe nói thẳng với tôi, sẽ tu sửa ghe
thật tốt rồi sẽ đưa cả vợ con đi vượt biên, không thể sống với các ông được!
Sau chuyến đi đó, tôi đã viết bài điều tra mang tên “Đi theo những con thuyền
mang tên Rạch Gầm”, báo Sài Gòn Giải Phóng đầu tháng 12-1986 đã đăng bài phóng
sự đó. Chính đại tá Hoàng Cuông, Trưởng ty công an Hải Hưng năm xưa, người được
nhắc đến như một điển hình tốt của bộ Công An đã đọc được bài báo đó khi ông
nhận chức Cục phó một cục của Bộ có cơ quan phía Nam. Đại tá Hoàng Cuông đã đi
xe Com-măng-ca, nhưng đỗ ở đầu đường, đi bộ đến nơi tôi đang ở tại TP.HCM “để
giữ bí mật” theo tác phong của ông, để gặp tôi và hỏi chuyện sau khi đọc bài
phóng sự trên báo. Tôi đã nói thẳng với vị đại tá công an này, là người ta sẽ
bỏ nước đi hết nếu Đảng không thay đổi đường lối lãnh đạo, vẫn ngăn sông cấm
chợ kiểu này!.
Đó
là chuyện tôi viết báo công khai, tôi còn làm một “báo cáo mật” cho Chủ tịch
Tiền Giang Nguyễn Công Bình về việc các trạm thuế trên các đường sông. Đó là
một lần tôi đang đi lang thang bên rạch Bảo Định ở Mỹ Tho. Tôi nghe thấy một bà
chủ ghe dưới rạch lớn tiếng than: “Kỳ này đi về tôi sẽ đốt ghe, không đi buôn
nữa!” Tôi vội lao xuống xem sự tình như thế nào. Thấy chiếc ghe khá lớn mang
biển số KG, tôi biết là ghe của tỉnh Kiên Giang. Bà chủ ghe cho tôi hay, ghe
của bà có trọng tải 21 tấn, bà chở đủ 21 tấn khoai mỳ (sắn) lên Thành phố Hồ
Chí Minh bán, nhưng đi qua các tỉnh, các trạm thuế đều bắt đóng thuế “bổ sung”
lấy lý do bà chở quá trọng tải 21 tấn quy định. Nếu không đóng thuế “bổ sung”
thì phải dỡ khoai mỳ lên cân lại! Bà than: “Bốc đủ 21 tấn khoai mỳ lên cân lại
thì bằng thắt cổ tôi cho xong!” Đó là cách bắt chẹt, bóp cổ dân của các trạm
thuế. Ghe của bà trọng tải 21 tấn nhưng khi lên đến trạm thuế Kinh Nước Mặn
tỉnh Long An – một trạm thuế “kinh hoàng” trên đường sông như trạm Tân Hương
trên đường bộ ở Đồng bằng sông Cửu Long thời đó, thì số hóa đơn thu thuế “bổ
sung” đã lên đến 20 tấn, xấp xỉ trọng tải chiếc ghe 21 tấn của bà. Đến Kinh
Nước Mặn, chồng bà phải tháo chiếc đồng hồ Seiko đeo tay để trạm thuế “cầm”,
như người ta “cầm đồ”, đợi khi nào lên TP.HCM, bán được khoai mỳ, lúc trở về sẽ
chuộc (!). Khi lên đến TP.HCM, trạm thuế thành phố miễn thuế cho bà vì lúc đó
TP.HCM có chính sách miễn thuế cho các ghe chở lương thực như khoai mỳ lên cứu
đói cho thành phố. Thành phố muốn có khoai mỳ để cán bộ công nhân viên và nhân
dân thành phố ăn sáng! Chính sách của TP.HCM như thế lúc đó, mà sau này người
ta gọi là chính sách “xé rào” của thành phố. Tôi hỏi bà chủ ghe mang biển số
KG: “Những trạm thuế nào ở Tiền Giang thu thuế bổ sung của bà?”. Bà cho biết
tất cả các huyện của Tiền Giang mà ghe bà chạy qua đều bắt nộp thuế bổ sung
như: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành… Tôi xin bà các hóa đơn thu thuế bổ sung, bà
cho ngay, trong đó còn có cả cái giấy biên nhận giữ đồng hồ của chồng bà ở trạm
thuế Kinh Nước Mặn, khi ghe bà quay về, chuộc lại mà trạm Kênh Nước Mặn quên
không đòi lại. Với chứng cứ ấy trong tay, suốt đêm hôm ấy tôi viết bản “báo cáo
mật” về vụ đánh thuế chiếc ghe biển số KG…, kèm theo các hóa đơn thu thuế bổ
sung. Sáng hôm sau tôi đem báo cáo chủ tịch tỉnh Nguyễn Công Bình. Xem xong
“báo cáo mật” của tôi, ông chủ tịch đập tay xuống bàn rất mạnh và không nói câu
nào cả. Đến kỳ họp giao ban hàng tuần, có đầy đủ các ty ban ngành trong sở, chủ
tịch Sáu Bình đã phê phán gay gắt ngành tài chính và các trạm thuế. Ông đập tay
xuống bàn, rồi giơ tập hóa đơn thuế bổ sung lên nói to trước hội nghị: “Thế này
thì chúng ta thành kẻ cướp rồi, đâu phải chính quyền Cách mạng!”
Một
ông trưởng ty ngồi cạnh tôi, ghé vào tai tôi nói nhỏ: “Đây là bọn công an kinh
tế tỉnh nó “chơi” bọn tài chính thuế vụ đấy!” (Không ai biết là tôi đã “báo cáo
mật” bằng văn bản cho chủ tịch Sáu Bình). Đến buổi chiều, ông chủ tịch gọi tôi
đến, bảo tôi viết thay ông một lá thư xin lỗi bà chủ ghe ở Kiên Giang. Ông cho
tôi hay: “Sẽ theo địa chỉ ghi trên bảng hiệu của ghe và tên bà chủ ghe để cử
cán bộ xuống Kiên Giang xin lỗi bà, bồi hoàn số tiền mà tỉnh Tiền Giang đã đánh
thuế oan với bà.
Chủ
tịch tỉnh Tiền Giang là một người như thế, ông nổi tiếng là sáng suốt, cương
trực và liêm chính. Nhiệm kỳ chủ tịch của ông, tỉnh Tiền Giang đứng đầu Đồng
bằng sông Cửu Long về nhiều mặt.
Cũng
trong khoảng thời gian này, công cuộc khai phá hai vùng đất hoang rông lớn của
Đồng bằng sông Cửu Long là Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên chưa thu được
kết quả như mong muốn nếu không muốn nói là thất bại. Do duy ý chí và nóng vội,
chúng ta đã cho máy bay đi gieo sạ lúa ở nông trường Lúa Vàng tại Đồng Tháp
Mười nên thất bại hoàn toàn. Tại Tứ giác Long Xuyên, trong vòng hơn 10 năm, đầu
từ năm 1975 đến 1987, mọi cố gắng của hai tỉnh An Giang và Kiên Giang đều kém
hiệu quả.
Tình
hình sản xuất và đời sống của nông dân Đồng bằng sông Cửu Long tiếp tục gặp khó
khăn, phải đến khi có chủ trương khoán 100 của Ban Bí thư, rồi khoán 10 của Bộ
Chính Trị (tháng 4/1988) thừa nhận hộ nông dân là đơn vị kinh tế chủ thể, hay
nói khác đi, ruộng đất trả về cho nông dân… thì tình hình sản xuất nông nghiệp
ở Đồng bằng sông Cửu Long mới khởi sắc.
Nhưng
một cơn bão lại ập đến với Đồng bằng sông Cửu Long vào những cuối thập niên 80
là tình trạng tranh chấp ruộng đất. Khác với đồng bằng Bắc Bộ, ruộng đất đã qua
cải cách ruộng đất và Hợp tác hóa nông nghiệp đã lâu, chủ đất cũ không còn nữa,
hoặc đã quá già, ruộng đất đã được Nhà nước quản lý và phân chia một thời gian
rất dài… Ruộng đất ở Đồng bằng sông Cửu Long mới qua vài năm làm ăn tập thể,
chủ ruộng vẫn còn đó, nên chủ trương cào bằng ruông đất “nhường cơm xẻ áo”… Khi
khoán 10 ra đời đã thành cuộc đòi lại, chia lại ruộng đất rất gay gắt, khốc
liệt.
Trong
vòng 2 năm 1988 – 1989 những cuộc tranh chấp dẫn đến đập phá, đánh chém nhau
diễn ra liên tiếp ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Hàng đoàn nông dân từ các
làng quê kéo lên các thị xã thành phố trong vùng biểu tình đòi ruộng đất diễn
ra hàng ngày, hàng tháng… Người bị lấy ruộng để chia cho người khác… đòi!.
Người không có ruộng đã được chia ruộng nay bị chủ cũ chiếm lại… đòi!. Người có
ruộng nhưng phải giao ruộng cho Hợp tác xã để phân chia, rồi phải nhận ruộng
của người khác theo “tiêu chuẩn” nhân khẩu… nay đòi về thửa ruộng cũ của mình
do ông bà để lại, do gần nhà v.v… cả đồng bằng náo loạn. Trung ương chưa có chỉ
thị, chưa có chủ trương nên các địa phương ở đồng bằng không biết đâu mà lần!
Trong
những ngày này, tôi và các phóng viên Thông tấn xã Việt Nam thường trú tại Tiền
Giang, nơi có nạn tranh chấp ruộng đất khốc liệt nhất, đã nhận được thông tin
và đến tận nơi có tranh chấp, có khi phải liều mình xông vào những nơi đánh
chém để ghi chép, chụp hình. Những hình ảnh mà chúng tôi còn giữ lại đến nay,
mỗi khi xem lại, còn thấy… cay xè hai con mắt!
Tôi
đã ghi chép và tổng kết thành 10 nguyên nhân tranh chấp ruộng đất ở tỉnh Tiền
Giang. Báo Công An Tiền Giang lúc đó do Thiếu tá Võ Thị Cẩm Hồng phụ trách đã
đăng bài tổng kết này dưới dạng “trích sổ tay phóng viên” với nhan đề “Những
dạng đòi đất” trong số báo 13, kỳ 1 tháng 12-1988. Số báo này tôi còn giữ, với
ý định sau này sẽ dùng làm đề cương cho một cuốn tiểu thuyết về giai đoạn bi
thương này ở Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng chưa làm được. Nhân “Nhìn lại 40
năm”, tôi chép lại nguyên văn bài báo đó để độc giả tham khảo…
(còn
tiếp)
L.P.K
21 tháng 4, 2015
Thái Phiên: Ảnh khỏa thân nghê thuật
Xuân thì 1
Phần 1: Ảnh nude nghệ thuật đã xuất hiện từ khá lâu rồi, nó cũng là một loại hình nghệ thuật nhiếp ảnh thật sự nhưng không phát triển mạnh, rầm rộ vì lý do định kiến xã hội với loại ảnh này vẫn còn. Nhưng có thể nói ảnh khỏa thân nghệ thuật là một thể loại rất nhân bản.
Chụp ảnh khỏa thân chính là khám phá, ca ngợi và tôn vinh vẻ đẹp thuần khiết, thánh thiện mà tạo hóa đã ban tặng riêng cho con người, đặc biệt là phụ nữ.
Chớm thu
Cỏ đá lao xao
Cô liêu
Curves
Dáng xuân
Hoàng hôn đỏ
Linh hồn tượng đá
Nắng lụa
Nụ
Sóng đỏ
Sóng cát
Thân phận
Tung cánh
Về với thiên nhiên
Về soi bóng mình
Đồng bằng sông Cửu Long – 40 NĂM NHÌN LẠI - Kỳ 1
* LÊ PHÚ KHẢI
LỜI
TÁC GIẢ
![]() |
Nhà báo Lê Phú Khải |
“Đồng bằng sông Cửu Long – 40 năm nhìn lại” là một đề
tài lớn, là công việc của một viện nghiên cứu khoa học, nó vượt quá sức của
tôi. Nhưng với lòng yêu mến mảnh đất cuối cùng của đất nước có đồng ruộng bao
la, miệt vườn tươi tốt, sông ngòi chằng chịt, “bằng phẳng một cách kỳ lạ” đã
làm tôi ngỡ ngàng ngay từ lúc mới đặt chân đến sau ngày đất nước thống nhất. Và
con người, “những con người cực kỳ bé nhỏ, nhỏ như một dấu chấm, nhưng lại cực
kỳ to lớn, lớn như lịch sử đất nước, tạo ra cả một miền trù phú” (Băng Sơn) đã
lưu giữ tôi lại đất này. Với tư cách một phóng viên thường trú nhiều năm tại
Đồng bằng sông Cửu Long, tôi ghi chép lại những điều tai nghe mắt thấy và những
suy nghĩ, “đánh giá” của mình về sự phát triển nông nghiệp sau 40 năm của Đồng
bằng sông Cửu Long, với hy vọng cung cấp một ít tư liệu cho những nhà nghiên
cứu sau này.
Cánh tay gầy guộc của tôi ráng sức viết về một vùng
đồng bằng trù phú của đất nước, chắc chắn sẽ có rất nhiều thiếu sót mong bạn
đọc chỉ giáo.
TP.Hồ Chí Minh 8/2014
Lê Phú Khải
* * *
I
– VÀI TRANG TƯ LIỆU
Sông Mê Kông lớn nhất vùng Đông Nam Á, bắt nguồn từ
những dãy núi tuyết phủ vùng Tây Tạng Trung Quốc, dài 4200 km, chảy qua 6 nước:
Trung Quốc, Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu
Long là phần cuối cùng của châu thổ sông Mê Kông, có diện tích tự nhiên 39.000
km2 chiếm 5% diện tích toàn lưu vực. Bắt đầu từ Phnôm Pênh nó chia thành hai
nhánh: bên phải là sông Ba Thắc khi chảy vào Việt Nam
mang tên sông Hậu, bên trái là Mê Kông khi chảy vào Việt Nam mang tên
sông Tiền. Phần chảy trên địa bàn Đồng bằng sông Cửu Long có độ dài chừng 220
đến 250 km. Có một điều thú vị là, sông Mê Kông có một nhánh nhỏ bắt nguồn từ
Điện Biên Phủ của Việt Nam.
Đó là sông Pa Thơm do hai con sông nhỏ là sông Nậm Rốm và Nậm Lúa nhập làm một
khi sang đất Lào, gặp sông Mê Kông ở Ban-Chim.
Mỗi năm dòng sông vĩ đại này chảy đi 500 tỷ mét khối
nước, chuyển chở gần 1000 triệu tấn phù sa màu mỡ. Mê Kông có lưu lượng trung
bình là 13.200 m3/giây. Vào mùa lũ, thường là từ tháng 8 đến tháng 10 dương
lịch hàng năm lưu lượng tăng gấp bội.
Khi vào Việt Nam, 80% lưu lượng Mê Kông đổ vào
sông Tiền, 20% vào sông Hậu. Nhưng sông Vàm Nao đã thông bớt nước sông Tiền về
sông Hậu và bình quân mỗi bên chiếm 50% lưu lượng. Lũ năm 1961 lớn nhất ở Đồng
bằng sông Cửu Long, có lưu lượng đỉnh lũ ở Kratie là 62.400 m3 /giây với tổng
lưu lượng lũ 90 ngày lớn nhất là 3399x10m3. Lũ Mê Kông khi vào Đồng bằng sông
Cửu Long đã giảm nhiều do tác dụng điều tiết của Biển Hồ và các vùng ngập lụt
trên đất Campuchia, dạng lũ “bẹt” và thời gian kéo dài. Lũ vào Đồng bằng sông
Cửu Long theo hai hướng: Từ vùng ngập lũ trên đất Campuchia khoảng 10-15% tổng
lượng. Lũ theo sông Tiền và sông Hậu khoảng 80-90% tổng lượng. Lũ theo dòng chính thoát ra biển Đông, một phần nhỏ
thoát ra biển Tây và sông Vàm Cỏ. Lũ vào Đồng Tháp Mười chủ yếu tràn từ biên
giới Campuchia sang chiếm 80%, một phần chảy từ sông Tiền vào qua các kênh Hồng
Ngự, Mường Lớn và An Bình chiếm 12%. Ngoài ra, lũ Đồng Tháp Mười do mưa tại chỗ
sinh ra, khoảng 3,5 - 4 tỷ m3. Ngập lũ vùng Tứ giác Long Xuyên chủ yếu do nước
lũ Mê Kông từ các vùng ngập lụt bên Campuchia và từ sông Hậu qua các kênh nối
sông Hậu với kênh Rạch Giá – Hà Tiên chảy vào. (Theo tài liệu của Phân viện
khảo sát quy hoạch thủy lợi Nam Bộ 9-1998).
Lũ ở Đồng bằng sông Cửu Long hiền hòa, còn được gọi là
lũ lành, xưa kia đồng bào gọi mùa lũ là “mùa nước nổi”. Mức lũ “nổi” lên trung
bình 6cm/ngày, cao nhất không quá 30cm/ngày. Trái lại, ở sông Hồng mức nước lũ
dâng lên rất nhanh, có khi đến 9cm/giờ. Nhiều nơi như Đồng Tháp Mười, Châu Đốc
lũ ngập sâu đến 3 – 4 mét. Lũ là tài nguyên lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long hàng
năm, nó đem đến nước ngọt phù sa bón cho đồng ruộng, đồng thời vệ sinh đồng
ruộng (diệt chuột bọ sâu bệnh) nó còn cung cấp cá, tôm cho con người.
Vì thế, đã có lần, Thủ tướng Võ Văn Kiệt nói với người
viết cuốn sách nhỏ này rằng: Ở Đồng bằng sông Cửu Long, không có lũ cũng là
thiên tai!
Vùng ngập lũ hàng năm ở Đồng bằng sông Cửu Long gần 2
triệu hecta, thường bắt đầu từ tháng 7 và kết thúc vào tháng 11 dương lịch hàng
năm. Vùng lũ Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long
An, Tiền Giang, Kiên Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Bến Tre… Mức ngập sâu từ 0,5
đến 4 mét. Khoảng 1 triệu hécta có mức ngập sâu trên 1 mét. Mức lũ được xác
định bằng đỉnh lũ cuối tháng 9 đầu tháng 10 tại Tân Châu – An Giang với ba cấp:
lũ nhỏ < 4m, trung bình: 4 – 4,5 mét, lớn > 4,5 mét. Chế độ lũ sông Mê
Kông thất thường. Trong 50 năm (1931 – 1980) xảy ra 22 lần lũ lớn và 2 lần lũ
nhỏ. Có khi 4 – 5 năm liền lũ lớn liên tiếp…
Trong hơn 30 năm, kể từ năm 1981 đến nay, người viết
cuốn sách nhỏ này với tư cách là Phóng viên thường trú của Đài Tiếng Nói Việt
Nam tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã chứng kiến trận lũ lớn nhất vào năm
2000, tiếp đó là vào năm 2001.
Trận đại hồng thủy năm 2000 làm bàng hoàng cả nước. Lũ
về rất sớm, sớm hơn 1 tháng so với mọi năm. Mực nước sông Hậu tại Châu Đốc là
4,9 mét còn cao hơn đỉnh lũ năm 1961, năm lũ lớn nhất. Cả vùng lũ Đồng bằng
sông Cửu Long bị nhấn chìm trong lũ. Hơn 400 người chết, thiệt hại lên đến gần
4000 tỷ đồng (thời giá năm 2000). Năm 1988 lũ lại quá thấp. Sâu bệnh, chuột bọ
hoành hành, công làm cỏ ăn hết công lúa. Phù sa, tôm cá lại không có. Chi phí
sản xuất (phân bón, thuốc trừ sâu) quá lớn. Vì thế, lũ quá lớn và không có lũ
đều là thiên tai với Đồng bằng sông Cửu Long.
Người
đầu tiên thám hiểm sông Mê Kông là ông Antonio De Faria, người Bồ Đào Nha vào
năm 1540 nhằm mục đích truyền giáo và buôn bán. Từ năm 1641 đến 1642, một người
Hà Lan là ông Gerrit Van Wuys Thaff đã thám hiểm đến Viên Chăn. Người Pháp quan
tâm đến Mê Kông sau khi đã chiếm được Sài Gòn và Campuchia năm 1863. Cuộc thám
hiểm có hệ thống bởi người Pháp là hai ông Ernes Doudard De Lagree và Francis
Garnier vào các năm 1866 – 1868.
Theo thạc sỹ C.Hart Schaaf, cựu ủy viên Ủy ban Mê Kông
thì: “Đây là người khổng lồ đang ngủ, chứa trong lòng nó một khối tiềm năng to
tát về thủy điện, về dẫn thủy nhập điền cũng như khả năng phòng lụt…”
Theo Quỹ bảo vệ thiên nhiên thì Mê Kông có nhiều loài
cá rất quý như: cá úc, cá trê, cá đuối gai độc khổng lồ, cá nhái răng nhọn, cá
chép lớn, cá tầm, cá hồi ăn thịt, các loại cá này có thể nặng tới 90kg và dài
tới 1,8 mét. Cá úc khổng lồ Mê Kông được coi là loài cá nước ngọt lớn nhất,
cùng họ với cá nhám chó đã được đưa vào danh sách những loài bị đe dọa diệt
chủng vào năm 2003.
- Đồng bằng sông Cửu Long xưa nay ít bão, từ năm 1918
đến năm 1929 có 98 cơn bão tiến vào biển Đông, nhưng chỉ có 7 cơn bão đã dạt
đến Đồng bằng sông Cửu Long và tắt dần, không ảnh hưởng gì lắm. Có lẽ mà vì thế
trong văn bản của Bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông thôn “Báo cáo quy hoạch
kiểm soát lũ Đồng bằng sông Cửu Long để ngày 24/10/1997, ngay trong phần đầu
“Vài nét về tự nhiên, tiềm năng và lũ Đồng bằng sông Cửu Long” đã có nhận định:
“Đất đai phì nhiêu, nguồn nước phong phú, nhiệt độ ổn định, ánh sáng dồi dào,
không có bão(!)”. Thật là trớ trêu, chỉ hơn một tuần lễ sau, ngày 2/11/1997 cơn
bão số 5 đã tàn phá dữ dội các tỉnh ven đồng bằng. Tại cuộc họp khẩn cấp của
chính phủ tại Thành phố Hồ Chí Minh để khắc phục hậu quả cơn bão số 5, chủ tịch
Cà Mau là ông Bảy Trị (Phan Thạnh Trị) khi nói về thiệt hại do cơn bão số 5 gây
ra đã cho rằng: Cà Mau chưa có “kinh nghiệm” chống bão nên… thì cố vấn Võ Văn
Kiệt (quê Vĩnh Long) đã ngắt lời, nói: Cái đó “cho qua”, vì ngay cả tôi đây, đã
hơn 70 tuổi, lớn hơn đồng chí nhiều mà đã thấy bão bao giờ đâu (!). Cả hội nghị
đã bật cười!. Người viết những dòng chữ này có mặt trong cuộc hội nghị đó, thấy
rằng mình có “trách nhiệm” viết lại chi tiết này về bão ở Đồng bằng sông Cửu
Long!!!
- Địa hình Đồng bằng sông Cửu Long đơn giản, cao trung
bình 2 mét. Nghiêng từ Tây Bắc xuống Đông Nam, biên độ 4 đến 0 mét. Đất tự
nhiên chia làm 4 nhóm chính: đất phèn 1.885.900 hecta chiếm 47,14%, đất phù sa
ngọt 960.700 hecta chiếm 24,01%, đất nhiễm mặn 703,500 hecta chiếm 17,50%, phần
còn lại là đất phù sa cũ, đất cát ven biển, đất ngập triều và đất núi, đất than
bùn… Đường xá, sông rạch chiếm 12% diện tích. Trên cơ sở thổ nhưỡng, địa chất,
thủy văn, khí hậu và kinh nghiệm sản xuất, các nhà nghiên cứu đã chia Đồng bằng
sông Cửu Long làm 6 vùng sinh thái nông nghiệp và 34 tiểu vùng (sẽ nói ở phần
sau).
- Khi chiếm được Nam Bộ, thực dân Pháp làm kênh mương
với mục đích chủ yếu là giao thông vận tải, nhưng lại mang nước ngọt về vùng
chua phèn mặn. Vì thế kênh mương đào đến đâu thì dân kéo đến làm nhà bên bờ
kênh và làm ruộng từ kênh mương vào nội đồng. Sản lượng thóc gạo tăng nhanh,
thực dân Pháp nắm độc quyền xuất khẩu gạo với giá rẻ mạt mà chúng mua của nông
dân. Tiền lời thu được ở lúa gạo đủ để chúng nuôi toàn bộ lực lượng chiếm đóng
và kinh phí hành chánh và xây dựng ở nước ta.
Ngay từ năm 1860 (một năm sau khi phá đồn Gia Định)
Pháp đã mở cảng Sài Gòn bán gạo cho 246 chiếc tàu, chở đi 54000 tôn-nô trị giá
5 triệu frans. Đến năm 1930, diện tích lúa ở Nam Bộ là 2.443 ngàn hecta xuất
1.300 ngàn tấn. Nhưng năng suất làm lúa của nông dân đồng bằng lúc đó chỉ 1 tấn
đến 1 tấn 2/1 hécta.
Từ ngày thống nhất đất nước, từ 1 vụ lúa năng suất
thấp, đến nay phần lớn đã làm lúa hai vụ (Đông Xuân Hè Thu), có nhiều nơi làm
đến 3 vụ lúa năng suất cao, đưa sản lượng từ 4,7 triệu tấn năm 1976 lên 13
triệu tấn năm 1995; 14,7 triệu tấn năm 1996. Năm 1999, tổng sản lượng lúa của
cả đồng bằng đã đạt 16,5 triệu tấn. Năm 2013 vừa qua, sản lượng lúa của đồng
bằng đạt tới 24 triệu 850 ngàn tấn. Kiên Giang là tỉnh đứng đầu với 4 triệu 470
ngàn tấn, An Giang đứng thứ hai với 3,9 triệu tấn, Long An 2,8 triệu tấn…
Tính đến 15 tháng 6-2014 cả Đồng bằng sông Cửu Long đã
xuất khẩu được 2,5 triệu tấn gạo, giá trị gần 1tỷ USD.
Đồng bằng sông Cửu Long có một đội ngũ nông dân tiên
tiến đông đảo mà không vùng nào trong cả nước có được. Về trồng lúa có thể nêu:
Hai Chung ở Lương Hòa Lạc – Chợ Gạo – Tiền Giang, Sáu Đức ở xã Lương An Trà,
Tịnh Biên – An Giang có đến 100 hecta làm lúa xuất khẩu. Lê Văn Lùng ở Tân Lập
– Tịnh Biên – An Giang. Bác Lùng có 20 hecta lúa, bác bỏ ra 3 hecta làm từ
thiện, mua xe cấp cứu cho Trạm Y tế xã. Trồng vườn có bác Mười Quảng ở Cù Lao,
Thới Sơn, Tiền Giang; có Chín Hóa, Tư Thành ở Chợ Lách, Bến Tre trồng sầu riêng
hạt lép nổi tiếng… Có thể nói danh sách những nông dân trồng lúa tiên tiến ở
Đồng bằng sông Cửu Long dài đến vô tận…
Về nuôi trồng thủy sản có Trần Văn Tám ở thị trấn
Ô-Môn – Cần Thơ, Ngô Văn Ấn ở ấp Thới
An, xã Thới Thuận – Bến Tre, Nguyễn Văn Tiếu ở ấp Tân Thuận, xã Bình Đức Châu
Thành, tỉnh Tiền Giang. Những nông dân này luôn tiếp cận với khoa học trong sản
xuất, giao du với các giáo sư nông học, có người còn đón cả các đoàn sinh viên
các trường đại học về nhà mình ăn ở cả tháng để thực tập ngay trên đồng ruộng,
ao hồ của gia đình mình… để học hỏi từ các giáo sư, sinh viên những kiến thức
khoa học mới mẻ áp dụng cho sản xuất.
- Tài nguyên thủy sản Đồng bằng sông Cửu Long rất
phong phú. Theo kết quả điều tra của chương trình quốc gia 60-02 (1980 - 1985)
về đồng bằng thì các khu hệ mang tính nhiệt đới có 507 loài cá, tôm, trong
ruộng có 121 loài, tôm biển có 30 loài. Ở cả ba môi trường nước ngọt, nước lợ,
nước mặn có rất nhiều loài. Có 201 loài có căn cứ địa là Biển Hồ, 202 loài di
chuyển giữa biển và cửa sông với căn cứ địa là biển. 146 loài ở biển hay tụ tập
vào ruộng và đồng cỏ giáp ranh sông – biển. Rừng ngập mặn thường xuyên cung cấp
cho đất một lớp thảm mục dày làm thức ăn cho vi sinh vật. Các vi sinh vật lại
lần lược làm thức ăn cho tôm cá, bò sát... Nghề nuôi tôm ruộng ngập mặn là một
nguồn lợi kinh tế lớn ở Đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1998, tỉnh Sóc Trăng đã
xuất được 122 triệu USD hàng thủy sản, đứng đầu cả nước, tiếp đó là CAFATEX của
Cần Thơ với gần 100 triệu USD. Năm 2013 vừa qua, cả đồng bằng có sản lượng thủy
sản là 3 triệu 300 ngàn tấn. Đứng đầu là Kiên Giang với 581 ngàn tấn, Đồng Tháp
là 473 ngàn tấn, Cà Mau là 440 ngàn tấn.
- Trái cây là sản phẩm có giá trị đứng thứ ba ở Đồng
bằng sông Cửu Long sau lúa gạo và thủy sản. Năm 1960-1961 chính quyền Sài Gòn
kiểm tra canh nông ghi nhận Đồng bằng sông Cửu Long chỉ còn 20.195 hecta vườn
cây ăn trái, cho sản lượng 126.900 tấn/năm. Sau nhiều năm phục hồi, đặc biệt là
trong nền kinh tế thị trường ngày nay, miệt vườn đồng bằng đã phát triển đến số
lượng trên 200.000 hecta vào đầu những năm 2000. Nói đến sự trừu phú của Đồng
bằng sông Cửu Long trước hết phải nói đến miệt vườn, vì một hécta vườn cho lợi
bằng từ 5 đến 10 hecta lúa. Miệt vườn tập trung ở vùng Chợ Lách Bến Tre, Long
Hồ Vĩnh Long, Cái Bè Tiền Giang, Cần Thơ... Mỗi năm miệt vườn Đồng bằng sông
Cửu Long cho 2,4 triệu tấn trái cây, chiếm 60% sản lượng trái cây cả nước. Hiện
nay ta có Viện Nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam tại Long Định Tiền Giang.
- Rừng ở Đồng bằng sông Cửu Long chủ yếu là rừng tràm.
Tổng số lượng rừng ngập mặn trước năm 1950 có đến 250.000 hecta. Đến năm 1975
còn có 92.000 hecta do bị Mỹ rải chất độc hóa học trong các năm 1964,66,68,70
và 72. Sau năm 1975 rừng ngập mặn được trồng mới, có lúc đã lên đến 137.000
hecta vào năm 1980, sau đó lại bị tàn phá để nuôi tôm. Nhờ chính sách giao đất
giao rừng cho nhân dân kết hợp trồng rừng và nuôi tôm, rừng ngập mặn Năm Căn
được phục hồi trở lại. Năm 1995 đã có 115.000 hecta rừng. Tỉnh Cà Mau đã phấn
đấu để định hình lâm phần 176.000 hecta. Rừng tràm là một hệ sinh thái của vùng
phèn trũng nội địa ngập nước hàng năm từ 2 đến 5 tháng. Rừng tràm là một nơi cư
trú của nhiều loài động vật dưới nước, trên cây: chim, cá, ong mật v.v... Đồng
bằng sông Cửu Long có rừng tràm U Minh và Đồng Tháp Mười, đến năm 1972còn 174.000
hecta, năm 1977 còn 110.000 sau đó lại bị tiếp tục tàn phá. Đến nay còn giữ lại
được một số diện tích đáng kể ở U Minh và Đồng Tháp Mười.
- Nhiệt độ trung bình ở Đồng bằng sông Cửu Long hàng
năm vào khoảng 26-27 độ và ít chênh lệch giữa tháng nóng nhất và lạnh nhất
trong năm. Tuy nhiên sự thay nhiệt độ giữa ngày và đêm khá lớn, từ 7 đến 8 độ
C.
- Độ ẩm của khí quyển ở Đồng bằng sông Cửu Long tương
đối thấp so với Bắc và Trung Bộ. Lượng nước mưa khá điều hòa, trung bình
1900mm/năm, một vài vùng như Cà Mau, Kiên Giang có khi lên đến 2000mm/năm. Mùa
mưa từ tháng 5 đến tháng 10 dương lịch, chiếm 90% lượng mưa cả năm. Giữa mùa
mưa vào khoảng tháng 8, có thời gian hạn ngắn, gọi là “ Hạn Bà Chằng”.
Hiện trạng giao thông ở Đồng bằng sông Cửu Long trước
khi có Quyết định 99TTg của Thủ tướng Chính phủ: Về đường sông có 37 con sông
với tổng chiều dài 1706 km, 137 kênh rạch lớn dài 2780km, 33 rạch 466km, các
luồng lạch nhỏ 11.404 Km. Mạng lưới sông rạch chằng chịt này tạo nên mạng lưới
giao thông thủy rất thuận lợi cho Đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống kênh rạch
có độ sâu từ 1m trở lên có độ dài 13.000 km chiếm 30% tổng chiều dài sông toàn
quốc. Mật độ sông, kênh rạch là 0.3km/km2. 75% khối lượng vận tải hàng hóa
trong vùng do đường sông đảm nhiệm, vận chuyển hành khách chiếm 25-30%. Hai
tuyến vận tải chính là TP.HCM – Cà Mau và TP.HCM – Kiên Giang. Dọc theo tuyến
đường thủy có 5 cảng lớn nằm trên hai tuyến chính là: Mỹ Tho, Cao Lãnh, Vĩnh
Thái, Cần Thơ, Long Xuyên. Quan trọng nhất là cảng Cần Thơ. Đường bộ có tổng chiều
dài 6.600 Km không kể đường giao thông nông thôn. Phần lớn được xây dựng từ
thời Pháp thuộc. Trong đó có 12 quốc lộ tổng chiều dài 1601 km, đường tỉnh dài
2499 Km, số còn lại là đường huyện. Hệ thống cầu 386 chiếc với chiều dài 20.314
mét, đa phần được xây dựng từ các năm 1920 – 1940, trọng tải thấp, gây trở ngại
cho giao thông thủy. Đường nông thôn quá ít, lại chưa vào cấp, cầu khỉ còn
nhiều nên còn 400 xã vùng sâu ô tô loại nhỏ chưa vào được. Tuy nhiên, đường bộ
vẫn đảm nhiệm 75 – 80% khối lượng vận chuyển hành khách và 25 - 30% hàng hóa.
Trước đây, Đồng bằng sông Cửu Long có đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh đi Mỹ Tho
nay chưa được phục hồi. Đường hàng không mới có hai tuyến đưa vào khai thác là
Trà Nóc (Cần Thơ) và Phú Quốc (Kiên Giang).
-
Sáu vùng sinh thái ở Đồng bằng sông Cửu Long:
* Vùng
1: Vùng nước ngọt phù sa ven sông Tiền sông Hậu, diện tích 949.000 hecta.
* Vùng
2: Vùng phù sa nhiễm mặn ven biển Đông, diện tích 904.000 hecta, chạy dài từ Gò
Công đến Giá Rai.
* Vùng
3: Vùng bán đảo Cà Mau, có diện tích 778.000 hecta có tiềm năng giàu có về sản
xuất nông-lâm-ngư nghiệp.
* Vùng
4: Vùng đất trũng Tây sông Hậu, có diện tích 380.000 hecta. Xa sông Hậu, đất
phèn nhẹ có phù sa bồi, ngập úng. Đây là địa bàn của lúa mùa dài ngày, lúa cấy
hai lần trước kia.
* Vùng
5: Vùng Tứ giác Long Xuyên, có diện tích 504.000 hécta, đất phèn, ngập lũ từ 1
đến 2 mét. Tứ giác Long Xuyên có bốn góc là 4 thị xã: Long Xuyên, Châu Đốc, Hà
Tiên, Rạch Giá. Có tiềm năng khai hoang tăng vụ, có di chỉ Óc eo.
* Vùng
6: Vùng Đồng Tháp Mười, diện tích trên 600.000 hecta, chiếm 70% đất của ba
tỉnh: Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang. Vùng này ngập lũ trong mùa mưa từ 2 đến 4
mét.
Từ đầu thế kỷ 20 lúa nổi đã được nhập vào đây từ Thái Lan và Nam Lào.
Người Pháp đã dày công nghiên cứu vùng này. Vào năm 1937 bắt đầu đo đạc, làm
bản đồ các đường đồng mức và nghiên cứu thủy văn. Nhà văn Nguyễn Hiến Lê là một
kỹ sư thủy lợi, đã viết cuốn sách nổi tiếng “Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười” từ
chuyến đi khảo sát này vào năm 1937. Người Mỹ, người Nhật và người Hà Lan cũng
đã tổ chức nghiên cứu ở đây, đều kết luận đất xấu và khó làm. Muốn cải tạo phải
đầu tư quá nhiều, kết quả sản xuất lại không chắc. Sau này ta khai thác tốt
vùng Đồng Tháp Mười.
Những cuốn sách đã xuất bản sau 1975 về Đồng bằng sông
Cửu Long đáng lưu ý là: Đồng bằng sông Cửu Long của tác giả Phan Quang – Nhà
xuất bản Văn Hóa 1981 đã tái bản đến 5 lần; Đồng bằng sông Cửu Long – 40 năm
của Trần Bạch Đằng (NXB TP.HCM 1985). Những vấn đề đất phèn Nam Bộ - Lê Huy Bá, (NXB TP.HCM 1982); Mấy vấn đề văn hóa Đồng bằng sông Cửu Long (Viện Văn hóa xuất
bản 1984); Đồng bằng sông Cửu Long - Lê Minh, (NXB TP.HCM, 1984); Minh Hải địa
chí - Trần Thanh Phương, NXB Mũi Cà Mau, 1985); Cửu Long địa chí - Trần Thanh
Phương, (NXB Cửu Long – 1989); Lịch sử khẩn hoang vùng đất Nam Bộ - Huỳnh Lý chủ
biên, (NXB TP.HCM – 1987); Các hệ thống sản xuất nông nghiệp ở Đồng bằng sông
Cửu Long - Đặng Kim Sơn, (NXB TP.HCM – 1986); Nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long - Giáo sư Dương Hồng Hiên, (NXB TP.HCM – 1989); Cách mạng ruộng đất ở miền Nam
Việt Nam - Lâm Quang Huyên, (NXB Khoa học xã hội – 1997). Đồng Tháp Mười hôm nay
- Lê Phú Khải – (NXB TP.HCM 1989, đã tái bản); Viết từ Đồng bằng sông Cửu Long - Lê Phú Khải (NXB TP.HCM 1995 – đã tái bản); Hồ sơ đồng bằng sông Cửu Long - Lê
Phú Khải (NXB Thanh Niên, 2000); Chung sống với lũ - Lê Phú Khải, (NXB Thanh Niên,
2001)...
(còn tiếp)
L.P.K (Tác giả gửi
BVB yêu cầu đăng nhiều kỳ)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)